Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<49505152535455>»
  • Xem thêm     

    12/07/2018, 02:47:21 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đối với trường hợp này , tôi xin đưa ra phương án để bạn tham khảo. Mỗi phương án chúng tôi sẽ nêu ra những ưu điểm và nhược điểm để quý công ty cân nhắc kỹ lưỡng trước khi quyết định

    Thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động theo khoản 3, điều 36 BLLĐ

    Nội dung của phương án này là công ty thỏa thuận với người lao động để chấm dứt HĐLĐ trong thời hạn và phải đảm bảo thỏa thuận này không vi phạm pháp luật và trái đạo đưc xã hội. Công ty có thể nêu rõ lý do cho việc muốn đơn phương chấm dứt HĐLĐ trước thời hạn này vì muốn phát triển khinh doanh theo hướng mới và nhân viên H không đáp ứng được hoặc không còn phù hợp với định hướng kinh doanh mới của công ty. Khi thỏa thuân chấm dứt hợp đồng lao động, công ty có thể thỏa thuận trả một khoản tiền hay hứa tạo điều kiện giới thiệu anh H vào một công ty khác cũng có điều kiện làm việc và vị trí làm việc đúng với chuyên môn mà anh H đang làm hiện tại

    Nếu thỏa thuận chấm dứt thành công thì về phía công ty phait trợ cấp thôi việc, nếu anh H đã làm việc thường xuyên  trong công ty từ đủ 12 tháng trở lên thì công ty có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm làm việc là nửa tháng lương, cộng với phụ cấp lương nếu có. (Theo điều 48, BLLĐ 2012)

         Ưu điểm của phương án này là: An toàn về mặt pháp lý, hợp đồng được chấm dứt do thỏa thuận từ hai bên nên sẽ tránh được việc xảy ra tranh chấp về sau. Và việc thỏa thuân chấm dứt này cũng đảm bảo được quyền và lợi ích giữa các bên.

    Chấm dứt hợp đồng trái pháp luật quy định tại điều 41 BLLĐ

    Công ty có thể lựa chọn phương án chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật theo quy định tại điều 41 BLLĐ. Hạn chế của phương án này là tỉ lệ thành công không cao do phải phụ thuộc vào quyết định của NLĐ. Nếu công ty không muốn nhận anh H quay lại làm việc tiếp và anh H đồng ý thì công ty mới có thể chấm dứt HĐLĐ với anh H. Không những thế mà công ty còn phải tốn một khoản chi phí không nhỏ cho bồi thường một khoản tiền lương ứng với tiền lương và phụ cấp lương (nếu có), khoản trợ cấp quy định tại điều 49 và các khảo tiền bồi thường do 2 bên thỏa thuận.

  • Xem thêm     

    12/07/2018, 02:01:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại điều 204 Luật đất đai, bạn hoàn toàn có quyền khiếu nại quyết định bồi thường thu hồi đất như sau:

    1. Người sử dụng đất, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến sử dụng đất có quyền khiếu nại, khởi kiện quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính về quản lý đất đai.

    2.Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trình tự, thủ tục giải quyết khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo quy định của pháp luật về tố tụng hành chính”.

    Trình tự khiếu nại được quy định tại điều 7 Luật khiếu nại 2011 như sau:

    “Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính”.

    Do đó, theo quy định trên thì gia đình bạn có thể gửi đơn khiếu nại đến chủ tịch UBND huyện nơi có bất động sản bị thu hồi hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nơi có bất động sản bị thu hồi để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình chứ không thể tố cáo họ lừa đảo được.

  • Xem thêm     

    12/07/2018, 01:35:00 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo quy định tại Điều 118 Luật Bảo hiểm xã hội 2014:

    “Điều 118. Khiếu nại về bảo hiểm xã hội

    1. Người lao động, người đang hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, người đang bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội và những người khác có quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”

    Như vậy, nếu nhận thấy quyết định hoặc hành vi của người sử dụng lao động xâm hại đến quyền lợi của mình; bạn có thể khiếu nại đến cơ quan ra quyết định hoặc đến cơ quan quản lý lao động.

  • Xem thêm     

    11/07/2018, 06:31:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    "1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    Như vậy, bạn bị hành hung và gây thương tật nên trong trường hợp này bạn hoàn toàn có quyền làm đơn tố cáo hoặc tố giác người kia có những hành vi vi phạm về tội cố ý gây thương tích cho người khác. Căn cứ vào tỷ lệ thương tật và nguyên nhân dẫn đến hành vi của người kia để xác định trách nhiệm hình sự đối vợi họ.

    Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người kia có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: "2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;"

    Ngoài việc có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác thì người thực hiện hành vi còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại.

    Bạn có thể làm đơn tố cáo hành vi của người ra cơ quan công an phường hoặc cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện, quận, nơi có hành vi vi phạm xảy ra. Trong đơn tố cáo bạn đề nghị cơ quan công an có biện pháp bảo đảm an toàn cho ba anh và gia đình anh.

  • Xem thêm     

    11/07/2018, 09:53:28 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 25 Luật bảo hiểm xã hội 2014 thì điều kiện để được hưởng chế độ ốm đau bao gồm:

    “1. Bị ốm đau, tai nạn mà không phải là tai nạn lao động phải nghỉ việc và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền theo quy định của Bộ Y tế.

    Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu hoặc sử dụng chất ma túy, tiền chất ma túy theo danh mục do Chính phủ quy định thì không được hưởng chế độ ốm đau.

    2. Phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 07 tuổi bị ốm đau và có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.”

    Trong trường hợp của bạn, bạn có hai con nhỏ sinh đôi nên khi con ốm thì người lao động cũng được nghỉ chăm con ốm theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 nêu trên. Tuy nhiên, trong trường hợp cả hai con cùng ốm thì căn cứ theo hướng dẫn tại điểm a khoản 1 Điều 5 Thông tư 59/2015/TT- BLĐTBXH thì:

    a) Trường hợp trong cùng một thời gian người lao động có từ 2 con trở lên dưới 7 tuổi bị ốm đau, thì thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau được tính bằng thời gian thực tế người lao động nghỉ việc chăm sóc con ốm đau; thời gian tối đa người lao động nghỉ việc trong một năm cho mỗi con được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật bảo hiểm xã hội.”

    Khoản 1 Điều 27 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định về thời gian nghỉ hưởng chế độ ốm đau khi con ốm như sau:

    1. Thời gian hưởng chế độ khi con ốm đau trong một năm cho mỗi con được tính theo số ngày chăm sóc con tối đa là 20 ngày làm việc nếu con dưới 03 tuổi; tối đa là 15 ngày làm việc nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi.

    …….Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ khi con ốm đau quy định tại Điều này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hằng tuần”

    Như vậy, người lao động sẽ được nghỉ tối đa là 30 ngày làm việc trong một năm khi cả hai con ốm.

  • Xem thêm     

    10/07/2018, 03:02:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    "1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    Như vậy, bạn bị hành hung và gây thương tật nên trong trường hợp này bạn hoàn toàn có quyền làm đơn tố cáo hoặc tố giác người kia có những hành vi vi phạm về tội cố ý gây thương tích cho người khác. Căn cứ vào tỷ lệ thương tật và nguyên nhân dẫn đến hành vi của người kia để xác định trách nhiệm hình sự đối vợi họ.

    Trong trường hợp chưa đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người kia có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP: "2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;"

    Ngoài việc có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác thì người thực hiện hành vi còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị xâm hại.

    Bạn có thể làm đơn tố cáo hành vi của người ra cơ quan điều tra công an huyện, quận, nơi có hành vi vi phạm xảy ra. Trong đơn tố cáo bạn đề nghị cơ quan công an có biện pháp bảo đảm an toàn cho ba anh và gia đình anh.

  • Xem thêm     

    10/07/2018, 02:50:41 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Câu hỏi đã trả lời, bạn có thắc mắc gì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    08/07/2018, 11:31:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Chồng bạn đã có hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy được coi là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào

    Theo quy định tại Điều 250 – Bộ luật hình sự năm 2015 về Tội vận chuyển trái phép chất ma túy như sau:

    “1. Người nào vận chuyển trái phép chất ma túy không nhằm mục đích sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

    c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

    d) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;

    h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100 mililít;

    i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.

    2. Phạm tội trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội 02 lần trở lên;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;

    e) Vận chuyển qua biên giới;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam đến dưới 01 kilôgam;

    h) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam;

    i) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;

    m) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100 gam;

    n) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250 mililít;

    o) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 05 kilôgam;

    b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

    c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ 25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;

    e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300 gam;

    g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750 mililít;

    h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này.

    Như vậy, vận chuyển 470 viên thuốc lắc, 1,6 lạng thuộc vào trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều này. Vì vậy, anh trai bạn có thể bị xử lý hình sự với mức khung hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, các lần trước nếu có giao dịch nhưng chưa bắt được quả tang thì sẽ tùy thuộc vào cơ quan điều tra chứng minh các lần vận chuyển đó.

  • Xem thêm     

    08/07/2018, 05:21:20 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Ngoài trường hợp 2 bên thỏa thuận chấm dứt Hợp đồng lao động thì người sử dụng lo động có thể ký hợp đồng với người lao động dưới hình thức người khuyết tật. Người tàn tật là người do bị thương hoặc dị tật bẩm sinh, bị khiếm khuyết hoặc sút giảm khả năng của một hoặc nhiều hoặc nhiều bộ phận cơ thể mà khả năng lao động bị suy giảm từ 21% trở lên do tàn tật, được Hội đồng Y khoa giám định và xác nhận.

    Theo quy định của Bộ luật Lao động, nhà nước ta bảo hộ cho người tàn tật còn khả năng lao động có quyền làm việc bình đẳng trong việc lựa chọn công việc, học nghề như người lao động khác; đồng thời cũng khuyến khích người sử dụng lao động bằng nhiều hình thức thu nhận, tạo việc làm cho người tàn tật.

  • Xem thêm     

    08/07/2018, 05:00:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trong trường hợp của bạn nếu bị có nghi ngờ  về hành vi trộm cắp tài sản thì họ hoàn toàn có thể gửi đơn trình bảo đến cơ quan công an. Sau đó cơ quan Công an sẽ tiến hành điều tra.

    Nếu kết quả điều tra cho kết luận bạn có thực hiện hành vi lấy trộm đồ thì bạn có thể sẽ bị xử lý theo quy định về tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Tuy nhiên, theo những gì bạn nói thì đồ vật bị mất không phải do bạn lấy, và việc những người khác nói bạn trộm tài sản cũng không có chứng cứ, không có cơ sở. Vì vậy, nếu không đủ bằng chứng phạm tội về việc bạn lấy trộm tài sản và kết quả điều tra của Công an cho thấy bạn không trộm chiếc điện thoại của người khác. Như vậy những ai vu oan cho bạn sẽ phạm tội vu khống hoặc tội làm nhục người khác được quy định tại Bộ luật hình sự.

  • Xem thêm     

    06/07/2018, 09:49:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trước hết xét về trách nhiệm dân sự. Cả hai giao dịch đối với xe ôtô (thế chấp cho ngân hàng và bán cho bà Vân) đều không đăng ký giao dịch bảo đảm. Về mặt hình thức và giả sử cả giao dịch trên đều hợp lệ, thì căn cứ vào Điều 323 Bộ luật Dân sự 2015 chiếc xe ôtô trên vẫn được ưu tiên dùng để thanh toán nợ cho người cho vay bởi giao dịch thế chấp xe ôtô được xác lập trước giao dịch mua bán, tức là việc người vay bán chiếc xe không ảnh hưởng đến quyền lợi của người cho vay thế chấp.

    Ngoài ra, tài sản thế chấp (xe ôtô) đã bị hạn chế giao dịch (không được bán, nếu không cho phép) theo đúng quy định tại hợp đồng thế chấp và luật, giao dịch bán xe ôtô cho đã bị xem là vô hiệu.

    Như vậy, dù tài sản bảo đảm đã bị người vay tiền bán thì về pháp lý nếu tài sản còn tồn tại (vật chất) thì vẫn được thu hồi để ưu tiên thanh toán nợ cho người nhận thế chấp. Câu hỏi đặt ra là dưới góc độ pháp luật hình sự thì hành vi bán tài sản thế chấp ngân hàng của người vay 700 triệu đồng kia đã cấu thành tội phạm gì? 

    Căn cứ những chi tiết trong vụ việc này có thể khẳng định, người đêm ô tô thế chấp vay tiền đã thực hiện hành vi của mình bằng lỗi cố ý với động cơ và mục đích là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Trước hết, việc giao dịch giữa người thế chấp và người nhận thế chấp xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp.

    Tuy nhiên, sau khi đã được người nhận thế chấp cho vay, người thế chấp đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý, thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng hành vi làm lại giấy đăng ký xe nhằm bán xe cho người khác.

    Như vậy có cơ sở để khẳng định người vay tiền đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài theo Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản….”. 

    Để cấu thành tội danh này, phải thỏa mãn những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tức là phải có thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Việc người thế chấp bán xe cho người khác khi chiếc xe vẫn còn thế chấp được xác định là vi phạm thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng vay tài sản.

    Nói cách khác hành vi của người thế chấp sử dụng tài sản đã thế chấp vào mục đích bất hợp pháp đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự.

    Các hành vi phạm vào tội quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự được quy định là hành vi nhằm “chiếm đoạt” tài sản, nhưng sự chiếm đoạt được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và có đặc trưng khác hoàn toàn với các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể: Việc chuyển giao tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản sang người phạm tội là do tín nhiệm và hoàn toàn ngay thẳng để người được giao tài sản sử dụng (hợp đồng vay, mượn, thuê), bảo quản (hợp đồng trông giữ, bảo quản), vận chuyển (hợp đồng vận chuyển), gia công (hợp đồng gia công, chế biến), sửa chữa (hợp đồng sửa chữa).

    Trong trường hợp bạn nêu đã có hành vi gian dối với người bạn đã nhận thế chấp để “bán tài sản bảo đảm” thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, hành vi của người thế chấp còn có thể được tiếp tục xem là thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền vay và còn bị truy cứu trách nhiệm thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (lừa người mua xe) theo điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:49:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với trường hợp của anh trai bạn, do tỷ lệ giám định thương tích với 1 đối tượng là 65% nên anh trai bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo khoản 5 Điều 134 – Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:

    5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    Như vậy, khung hình phạt cao nhất anh bạn có thể phải chịu nếu như có Đơn tố cáo từ phía gia đình người bị thương tích là 15 năm tù. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng cần xem xét thêm các tình tiết để xét đến yếu tố chuyển tội danh cho anh bạn, để cấu thành theo Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội quy định tại điểm b khỏan 2 Điều 136 BLHS 2015:

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.”

    Việc chuyển tội danh cho anh bạn sẽ giảm khung hình phạt cao nhất xuống còn 03 năm. Do đó, chúng tôi cần biết thêm một số thông tin vụ án để có thể tư vấn chính xác cho gia đình bạn. Hiện naym, gia đình bạn nên đến thăm hỏi, động viên và bồi thường số tiền điều trị, thuốc men cho gia đình nạn nhân đó để có thêm tình tiết giảm nhẹ cho anh trai bạn.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:49:16 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trong trường hợp của bạn, bạn không thể tự mình đi chốt sổ BHXH của mình được mà bắt buộc là bên Công ty A thực hiện thủ tục chốt số theo quy định tại điểm b khoản 1.2 Điều 34 Quyết định 959/QĐ- BHXH ngày 09 tháng 09 năm 2015 quy định về đơn vị sử dụng lao động, UBND xã, Đại lý thu và cơ quan quản lý đối tượng:

    Điều chỉnh đóng BHXH, BHYT, BHTN hằng tháng:

    a) Kê khai, lập hồ sơ điều chỉnh đóng BHXH, BHYT, BHTN; tăng, giảm lao động, mức đóng, số tiền phải đóng; truy thu, hoàn trả; thay đổi, điều chỉnh thông tin đóng BHXH, BHYT, BHTN đối với đơn vị, người lao động; nộp hồ sơ kịp thời cho cơ quan BHXH để xác định số tiền đóng BHXH, BHYT, BHTN; cấp, ghi, xác nhận, chốt sổ BHXH, thẻ BHYT đối với đơn vị, người tham gia và đóng BHXH, BHYT, BHTN đầy đủ, đúng thời hạn.

    b) Phối hợp với cơ quan BHXH xác nhận, chốt sổ BHXH cho người lao động khi người lao động chấm dứt HĐLĐ, HĐLV hoặc thôi việc theo quy định của pháp luật”.

    Như vậy, theo quy định của pháp luật, người sử dụng lao động có trách nhiệm chốt sổ bảo hiểm xã hội của người lao động. Vậy, bạn không thể tự đi chốt sổ cho mình được.

    Chế độ thai sản cho lao động nữ sinh con cũng nhằm mục đích hỗ trợ, bù đắp một phần thu nhập khi họ nghỉ việc để sinh con do đó, khoản tiền đó không có nghĩa vụ thực hiện bất kỳ một khoản chi phí nào. Việc công ty giữ tiền bảo hiểm và trả lời là đợi khi chốt sổ xem có cần thêm chi phí gì thì sẽ trừvà đợi đến khi chốt sổ mới thanh toán cho bạn là sai quy định. Trong trường hợp này bạn có thể khiếu nại theo trình tự quy định tại Điều 119 Luật bảo hiểm xã hội 2014 như sau:

    1. Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi hành chính về bảo hiểm xã hội được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại.

    2. Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi về bảo hiểm xã hội không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này thì người khiếu nại có quyền lựa chọn một trong hai hình thức sau đây:

    a) Khiếu nại lần đầu đến cơ quan, người đã ra quyết định hoặc người có hành vi vi phạm. Trường hợp cơ quan, người có quyết định, hành vi về bảo hiểm xã hội bị khiếu nại không còn tồn tại thì cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp huyện có trách nhiệm giải quyết;

    b) Khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.

    3. Trường hợp người khiếu nại được quy định tại điểm a khoản 2 Điều này không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc khiếu nại đến cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện tại Tòa án.”

    Theo đó, khi người lao động không đồng ý với quyết định của người sử dụng lao động về bảo hiểm xã hội thì có thể lựa chọn một trong hai cách là : khiếu nại đến người sử dụng lao động hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:48:37 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với thông tin bạn cung cấp, việc chuyển đổi vị trí công tác hoặc cách chức là tùy thuộc vào cơ chế quản lý, hoạt động của công ty và điều lệ công ty. Việc công ty cách chức bạn mà không nêu rõ lý do và không có căn cứ thì bạn cần khiếu nại với công ty về Quyết định cách chức với bạn. Với trường hợp, công ty cách chức bạn với lý do bạn đang có thai thì căn cứ tại khoản 4 Điều 123 Luật lao động 2012:

    4. Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây:

    d) Lao động nữ có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi”.

    Cách chức là một trong các hình thức xử lý kỷ luật lao động theo Luật lao động 2012. Nên việc công ty xử lý kỷ luật trong khi bạn đang mang thai là sai quy định của pháp luật.

    Ngoài ra, người sử dụng lao động còn được quy định nghĩa vụ đối với lao động nữ tại Điều 154 Luật lao động 2012: “Tham khảo ý kiến của lao động nữ hoặc đại diện của họ khi quyết định những vấn đề liên quan đến quyền và lợi ích của phụ nữ”.

    Bạn có trình bày là hiện tại ở công ty, không được chuyển đổi hay cách chức trong kì thai sản, vậy bạn cần làm rõ những quy định đó, căn cứ tại văn bản nào. Nếu những quy định trên nằm trong thỏa ước lao động thì có thể công ty bạn đang làm sai với quy định.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:47:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với trường hợp của bạn, sau khi kết thúc Hợp đồng thử việc 2 tháng bạn có quyền chấm dứt thời gian thử việc mà không cần báo trước theo quy định tại khoản 2 Điều 29 BL LĐ 2012 về kết thúc thời gian thử việc:

    2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.”

    Tiền lương thực tế bạn làm việc vẫn được chi trả đúng theo Hợp đồng thử việc đã ký với bạn. Việc công ty không duyệt và không trả lương cho bạn là sai quy định luật.

    Quy định bắt buộc làm tối thiểu 06 tháng chỉ được quy định sau khi người lao động kết thúc thời gian thử việc vì theo căn cứ tại điều 27. Thời gian thử việc:

    Thời gian thử việc căn cứ vào tính chất và mức độ phức tạp của công việc nhưng chỉ được thử việc 01 lần đối với một công việc và bảo đảm các điều kiện sau đây:

    1. Không quá 60 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn, kỹ thuật từ cao đẳng trở lên;

    2. Không quá 30 ngày đối với công việc có chức danh nghề cần trình độ chuyên môn kỹ thuật trung cấp nghề, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ.”

    Như vậy, thời gian thử việc là không quá 2 tháng, sau thời gian thử việc công ty có trách nhiệm ký HĐLĐ với người lao động nếu người lao động được nhận vào làm. Vậy thời gian làm bắt buộc tối thiểu 06 tháng sẽ được chấp nhận  khi quy định tại HĐLĐ với người lao đông.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:47:03 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bộ Luật lao động 2012 có quy định về tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm như sau:

    “Điều 97. Tiền lương làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm

    1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:

    a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;

    b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;

    c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.

    2. Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường.

    3. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày”.

    Căn cứ vào quy định trên, công ty bạn sẽ điều chỉnh mức tiền lương làm thêm giờ cho phù hợp với đặc thù của công việc, quy chế của công ty và với  quy định của pháp luật. Quy định luật như vậy nhưng công ty có thể điều chỉnh cao hơn hoặc bằng nhung không được thấp hơn quy định của điều luật.

  • Xem thêm     

    03/07/2018, 10:46:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Thông tin bạn cung cấp chưa đầy đủ, do đó chúng tôi không thể tư vấn chính xác vợ bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh gì. Vậy nên chúng tôi sẽ tư vấn cho bạn làm 02 trường hợp:

    Thứ nhất, với công cụ gây án là con dao thái lan đã nằm trong danh mục “ phương tiện nguy hiểm” do đó dù tỷ lệ thương tích của nạn nhân là dưới 11%(đủ các yếu tố cấu thành tội) thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 điều 134 BLHS 2015 và theo tỷ lệ giám định thương tích thực tế sẽ quy định tính định khung theo tội này.

    Thứ hai, nếu hậu quả xảy ra là chết người (đủ các yếu tố cấu thành tội) thì vợ bạn có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội giết người theo quy định tại Điều 123 BLHS 2015 thì mức hình phạt cao nhất với tội này sẽ là tử hình.

    Thứ ba, nếu như tình tiết vụ án có việc đâm nạn nhân từ phía sau nhằm mục đích tự vệ hoặc do tinh thần bị kích động mạnh thì việc định tội danh cho vợ bạn sẽ không thuộc hai tội trên. Do đó, việc định tội danh phụ thuộc rất nhiều vào việc điều tra vụ án của cơ quan điều tra và lời khai của vợ bạn thì chúng tôi mới có thể tư vấn chính xác được.

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:13:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với hành vi của người đồng nghiệp trên, chúng tôi nhận định rằng đó là hành vi quấy rối tình dục theo khái niệm của Bộ Quy tắc do Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội: “Quấy rối tình dục có thể bằng hành vi mang tính thể chất như tiếp xúc, cố tình đụng chạm không mong muốn, sờ mó, vuốt ve, cấu véo, ôm ấp, hay hôn cho tới tấn công tình dục, cưỡng dâm, hiếp dâm..”

    Hành vi quấy rối tình dục rất khó cấu thành tội phạm do chưa có hậu quả nghiêm trọng, và hậu quả của hành vi quấy rối thường khó để chứng minh. Và với các thông tin bạn cung cấp, người đó chưa đủ yếu tố cấu thành tội hiếp dâm  do

    Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Bộ luật Lao động 2012 về các hành vi bị nghiêm cấm trong đó có hành vi: “Ngược đãi người lao động, quấy rối tình dục tại nơi làm việc”. Do đó bạn của bạn có thể hoàn toàn khiếu nại về vấn đề này, chứng minh qua các vết thương tích trên cơ thể của bạn bạn đó là “miệng sưng chảy máu, cổ lằn dấu tay khi bị hung thủ bóp chặt vào cổ” và dấu hiệu thực hiện hành vi nhiều lần như bạn đã nói. Ở trường hợp này, bạn của bạn cần chứng minh tinh thần và nhân phẩm của bạn ấy đã bị xúc phạm và làm nhục nghiêm trọng bởi hành vi của người đồng nghiệp kia.

    Ngoài hành vi quấy rối tình dục ở trên, đối tượng kia đã có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực nhằm uy hiếp vô hiệu hoá khả năng kháng cự của nạn nhân (tức làm tê liệt sự kháng cự của nạn nhân) để giao cấu với họ nhưng không được sự chấp thuận của họ đã có dấu hiệu về Tội Hiếp dâm được quy định tại điều 141 Bộ luật hình sự 2015 như sau: “1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc bằng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.”

    Như vậy, bạn của bạn có thể làm đơn khiếu nại về hành vi quấy rối tình dục và hiếp dâm tại nơi làm việc hoặc làm đơn khai báo, tố giác lên cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra. Trong đó cần chứng minh rõ về tính chất “nhiều lần” của hành vi, xác nhận của người làm chứng như bạn nêu trên và tài liệu xác thực về tình trạng bị xâm hại thể chất của bạn bạn.

  • Xem thêm     

    02/07/2018, 06:12:50 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Việc thực hiện kí kết hợp đồng với người cao tuổi được thực hiện theo quy định tại điều 167 Bộ luật lao động 2012 về sử dụng người lao động cao tuổi:

    "1. Khi có nhu cầu, người sử dụng lao động có thể thoả thuận với người lao động cao tuổi có đủ sức khỏe kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới theo quy định tại Chương III của Bộ luật này.

    2. Khi đã nghỉ hưu, nếu làm việc theo hợp đồng lao động mới, thì ngoài quyền lợi đang hưởng theo chế độ hưu trí, người lao động cao tuổi vẫn được hưởng quyền lợi đã thoả thuận theo hợp đồng lao động.

    3. Không được sử dụng người lao động cao tuổi làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người lao động cao tuổi, trừ trường hợp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.

    4. Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ của người lao động cao tuổi tại nơi làm việc".

    Bộ luật lao động 2012 hiện tại không quy định giới hạn về loại hợp đồng kí kết với người lao động cao tuổi mà chỉ quy định nếu người lao động có đủ sức khỏe theo kết luận của cơ sở khám chữa bệnh thì hai bên hoàn toàn có thể kéo dài hợp đồng lao động mà không giới hạn về thời gian cũng như có thể chấm dứt hợp đồng lao động khi người lao động không còn đảm bảo về sức khỏe theo quy định tại điều 6 Nghị định 05/2015/NĐ-CP:

    Điều 6. Hợp đồng lao động với người lao động cao tuổi

    1. Khi người sử dụng lao động có nhu cầu và người lao động cao tuổi có đủ sức khỏe theo kết luận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật thì hai bên có thể thỏa thuận kéo dài thời hạn hợp đồng lao động hoặc giao kết hợp đồng lao động mới.

    2. Khi người sử dụng lao động không có nhu cầu hoặc người lao động cao tuổi không có đủ sức khỏe thì hai bên thực hiện chấm dứt hợp đồng lao động".

    Do vậy, việc bạn đã ký với người lao động cao tuổi trên 3 lần và tiếp tục muốn kí gia hạn hợp đồng với người lao động tiếp là không trái với quy định pháp luật. Tuy nhiên, công ty bạn cần lưu ý chế độ ưu đãi về thời giờ làm việc cũng như về sức khỏe, tiền lương với người lao động trong trường hợp này nếu họ đang hưởng lương hưu để phù hợp với quy định của pháp luật về lao động.

  • Xem thêm     

    22/06/2018, 02:53:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đề nghị bạn liên hệ trực tiếp với tôi qua số điện thoại bên dưới này nhé

75 Trang «<49505152535455>»