Thế chấp đăng ký xe ô tô sau đó báo mất để cấp lại đăng ký rồi bán xe có phạm tội không?

Chủ đề   RSS   
  • #496070 04/07/2018

    longhangmin2013

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:04/07/2018
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 0 lần


    Thế chấp đăng ký xe ô tô sau đó báo mất để cấp lại đăng ký rồi bán xe có phạm tội không?

    Bạn tôi xác lập hợp đồng cho một người vay tiền mặt 700 triệu đồng (tài sản thế chấp là 01 đăng ký xe ô tô). Đến hạn phải trả bạn tôi mới biết người đó đã đến cơ quan Công an xin cấp lại đăng ký xe mới và bán chiếc xe đó và chỉ hứa hẹn sẽ trả nợ gốc và lãi khi có khả năng. Xin hỏi các luật sư người vay tiền của bạn tôi có phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản không ạ?

     
    3845 | Báo quản trị |  

Like DanLuat để cập nhật các Thông tin Pháp Luật mới và nóng nhất mỗi ngày.

Thảo luận
  • #496179   06/07/2018

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trước hết xét về trách nhiệm dân sự. Cả hai giao dịch đối với xe ôtô (thế chấp cho ngân hàng và bán cho bà Vân) đều không đăng ký giao dịch bảo đảm. Về mặt hình thức và giả sử cả giao dịch trên đều hợp lệ, thì căn cứ vào Điều 323 Bộ luật Dân sự 2015 chiếc xe ôtô trên vẫn được ưu tiên dùng để thanh toán nợ cho người cho vay bởi giao dịch thế chấp xe ôtô được xác lập trước giao dịch mua bán, tức là việc người vay bán chiếc xe không ảnh hưởng đến quyền lợi của người cho vay thế chấp.

    Ngoài ra, tài sản thế chấp (xe ôtô) đã bị hạn chế giao dịch (không được bán, nếu không cho phép) theo đúng quy định tại hợp đồng thế chấp và luật, giao dịch bán xe ôtô cho đã bị xem là vô hiệu.

    Như vậy, dù tài sản bảo đảm đã bị người vay tiền bán thì về pháp lý nếu tài sản còn tồn tại (vật chất) thì vẫn được thu hồi để ưu tiên thanh toán nợ cho người nhận thế chấp. Câu hỏi đặt ra là dưới góc độ pháp luật hình sự thì hành vi bán tài sản thế chấp ngân hàng của người vay 700 triệu đồng kia đã cấu thành tội phạm gì? 

    Căn cứ những chi tiết trong vụ việc này có thể khẳng định, người đêm ô tô thế chấp vay tiền đã thực hiện hành vi của mình bằng lỗi cố ý với động cơ và mục đích là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Trước hết, việc giao dịch giữa người thế chấp và người nhận thế chấp xuất phát từ một hợp đồng hợp pháp.

    Tuy nhiên, sau khi đã được người nhận thế chấp cho vay, người thế chấp đã dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đang do mình quản lý, thủ đoạn gian dối được thể hiện bằng hành vi làm lại giấy đăng ký xe nhằm bán xe cho người khác.

    Như vậy có cơ sở để khẳng định người vay tiền đã phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài theo Điều 175, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 quy định:

    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản….”. 

    Để cấu thành tội danh này, phải thỏa mãn những hành vi được mô tả trong cấu thành tội phạm. Tức là phải có thủ đoạn gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Việc người thế chấp bán xe cho người khác khi chiếc xe vẫn còn thế chấp được xác định là vi phạm thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng vay tài sản.

    Nói cách khác hành vi của người thế chấp sử dụng tài sản đã thế chấp vào mục đích bất hợp pháp đã cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự.

    Các hành vi phạm vào tội quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự được quy định là hành vi nhằm “chiếm đoạt” tài sản, nhưng sự chiếm đoạt được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau và có đặc trưng khác hoàn toàn với các tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể: Việc chuyển giao tài sản từ chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản sang người phạm tội là do tín nhiệm và hoàn toàn ngay thẳng để người được giao tài sản sử dụng (hợp đồng vay, mượn, thuê), bảo quản (hợp đồng trông giữ, bảo quản), vận chuyển (hợp đồng vận chuyển), gia công (hợp đồng gia công, chế biến), sửa chữa (hợp đồng sửa chữa).

    Trong trường hợp bạn nêu đã có hành vi gian dối với người bạn đã nhận thế chấp để “bán tài sản bảo đảm” thì ngoài việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của ngân hàng, hành vi của người thế chấp còn có thể được tiếp tục xem là thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tiền vay và còn bị truy cứu trách nhiệm thêm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (lừa người mua xe) theo điều 174 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.

    Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

    Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

    Email: luatsuthanhtung@gmail.com;

     
    Báo quản trị |  
    1 thành viên cảm ơn thanhtungrcc vì bài viết hữu ích
    longhangmin2013 (03/08/2018)
  • #498626   03/08/2018

    longhangmin2013
    longhangmin2013

    Sơ sinh

    Hồ Chí Minh, Việt Nam
    Tham gia:04/07/2018
    Tổng số bài viết (2)
    Số điểm: 40
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 0 lần


    tháng 9 năm 2014 mẹ tôi bán nhà và có được một khoản tiền để dành. Chị T đã  đặt vấn đề vay số tiền 200 triệu đồng để đầu tư kinh doanh và sẽ trả lãi cho mẹ tôi theo lãi suất của ngân hàng và được mẹ tôi đồng ý. 

    Chị T đã viết 01 giấy vay tiền vào ngày 10/9/2014, hẹn ngày 10/02/2015 sẽ trả đủ. Trong giấy vay tiền có nêu số CMND, hộ khẩu thường trú của chị T ở  thành phố Lào Cai, hiện công tác tại một cơ quan ở thành phố Hà Nội.

    Sau khi vay tiền chị T đã thanh toán đều khoản lãi hàng tháng cho mẹ tôi. Đến 10/02/2015 chị T trả cho mẹ tôi 50 triệu đồng tiền gốc và khất sẽ trả nốt cho mẹ tôi vào 10/02/2016. Do chị T là bạn của chị gái tôi nên mẹ tôi đồng ý. Tuy nhiên từ đó đến nay chị T viện nhiều lý do không trả tiền gốc, lãi cho mẹ tôi. 

    Qua tìm hiểu tôi được biết chị T đã bán nhà ở thành phố Lào Cai và chuyển về sinh sống tại quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (nhưng không biết đã chuyển khẩu về đó hay chưa). Hiện giờ gọi điện, nhắn tin đều không trả lời. Tôi muốn hỏi Luật sự một số nội dung sau:

    - Mẹ tôi có còn thời hạn khởi kiện đòi tài sản đối với chị T không? Nếu còn thì mẹ tôi sẽ phải gửi đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai hay TAND quận Cầu Giấy?

    - Do mẹ tôi đã từng bị tai biến, đi lại khó khăn nên mẹ tôi có thể gửi đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ qua đường bưu điện cho Tòa án có thẩm quyền không?

     

     
    Báo quản trị |  
  • #499039   08/08/2018

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với vướng mắc trên, Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    - Điều 155 Bộ Luật dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện như sau:

    “Điều 155. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện

    Thời hiệu khởi kiện không áp dụng trong trường hợp sau đây:

    1. Yêu cầu bảo vệ quyền nhân thân không gắn với tài sản.

    2. Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    3. Tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

    4. Trường hợp khác do luật quy định”.

    Vì quyền đòi nợ thuộc về quyền sở hữu nên ở đây không áp dụng thời hạn khởi kiện đòi tài sản đối với chị T.

    Khoản 1 Điều 39 BLTTDS 2015 quy định nhưa sau:

    “Điều 39. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

    1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các Điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

    b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 26, 28, 30 và 32 của Bộ luật này;

    c) Đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.

    Theo thông tin bạn cung cấp thì đây thuộc về tranh chấp dân sự nên toàn án nơi chị T cư trú sẽ có thẩm quyền giả quyết, cụ thể là TAND quận Cầu Giấy.

    - Khoản 1 Điều 190 BLTTDS 2015 quy định về gửi đơn khởi kiện đến Tòa án như sau:

    “Điều 190. Gửi đơn khởi kiện đến Tòa án

    1. Người khởi kiện gửi đơn khởi kiện kèm theo tài liệu, chứng cứ mà mình hiện có đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án bằng các phương thức sau đây:

    a) Nộp trực tiếp tại Tòa án;

    b) Gửi đến Tòa án theo đường dịch vụ bưu chính;

    c) Gửi trực tuyến bằng hình thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có)”.

    Căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 190 BLTTDS 2015 thì mẹ bạn được gửi đơn khởi kiện cùng các tài liệu chứng cứ qua đường bưu điện cho Tòa án có thẩm quyền.

    Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

    Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

    Email: luatsuthanhtung@gmail.com;

     
    Báo quản trị |  

Tư vấn của Luật sư có tính chất tham khảo, bạn có thể liên hệ trực tiếp với Luật sư theo thông tin sau:

Luật sư: Nguyễn Thanh Tùng; Điện thoại: 0913586658

Văn phòng luật sự Phạm Hồng Hải và Cộng sự - Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội;

Email: luatsuthanhtung@gmail.com;