Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<23242526272829>»
  • Xem thêm     

    14/11/2019, 07:10:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 17 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định:

    “Điều 17. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    3. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    4. Người đồng phạm không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành.”

    Căn cứ vào tính liên kết về hành vi: Những người trong vụ án đồng phạm phải cùng nhau thực hiện một tội phạm. Hành vi của người đồng phạm này liên kết chặt chẽ với hành vi của người đồng phạm kia. Hành vi của những người đồng phạm phải hướng về một tội phạm, phải tạo điều kiện, hỗ trợ cho nhau để thực hiện một tội phạm thuận lợi, nói cách khác hành vi của đồng phạm này là tiền đề cho hành vi của đồng phạm kia. Hành vi của tất cả những người trong vụ án đồng phạm đều là nguyên nhân dẫn đến hậu quả tác hại chung của tội phạm.

    Theo đó, trong trường hợp bạn nói có thể cho rằng đây là đồng phạm nên cứ phải thật thà khai báo để quyết định mức hành vi cho mỗi người và cơ quan có thẩm quyền sẽ dựa vào những tình tiết thực tế để ra quyết định.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 06:11:58 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động quy định, người sử dụng lao động phải đáp ứng đủ các điều kiện khi sử dụng người lao động làm thêm giờ, như sau: Phải được người lao động đồng ý; phải bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm, trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 1 năm; sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ.

    Nếu sự việc đúng như bạn phản ánh, thì doanh nghiệp huy động người lao động làm thêm giờ vào một ngày lễ, không phải là trường hợp làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, không phải là trường hợp bắt buộc người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ, do đó việc doanh nghiệp áp dụng quy định Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động, được hướng dẫn tại Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP trong trường hợp cụ thể này là không đúng.

    Điểm b, Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP hướng dẫn về thời gian nghỉ bù quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động như sau: Trường hợp không bố trí nghỉ bù đủ số thời gian thì phải trả lương làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật Lao động. Quy định này có thể gây hiểu lầm khi áp dụng, có quan điểm cho rằng nếu bố trí nghỉ bù đủ số thời gian làm thêm giờ thì không phải trả lương làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động.

    Trường hợp có quan điểm khác nhau về việc áp dụng Điểm b, Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP, căn cứ Khoản 2, Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, cụ thể, áp dụng quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động để làm căn cứ tính, trả tiền lương làm thêm giờ cho người lao động.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 06:05:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Điêu 104, BLLD 2012 quy định về thời giờ làm việc bình thường như sau:

    1. Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ trong 01 tuần.

    2. Người sử dụng lao động có quyền quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày, nhưng không quá 48 giờ trong 01 tuần .

    Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ.

    3. Thời giờ làm việc không quá 06 giờ trong 01 ngày đối với những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 và Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH thì, tiền lương để tính tiền làm thêm giờ cho người lao động là tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ, mà theo Khoản 1 Điều 3 và Khoản 1 Điều 4 Thông tư này thì tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở HĐLĐ, bao gồm mức lương theo công việc hoặc theo chức danh trong thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng cộng với phụ cấp lương (nếu có).

    Từ đó có thể hiểu rằng, tiền lương để tính tiền làm thêm giờ cho người lao động là tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ, bao gồm cả mức lương theo công việc hoặc theo chức danh (lương chính) cộng với phụ cấp có tính chất lương (nếu có) đã ghi trong HĐLĐ. Do đó, trong trường hợp của bạn thì Công ty phải trả 150% so với tiền lương giờ thực trả của ngày bình thường theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 05:53:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: 

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    ...”

    Như vậy cần phải xem xét mức độ tổn thương cơ thể của người bị đánh là bao nhiêu phần trăm và hung khí người phạm tội ở đây là gì thì mới có thể xác định được hành vi của anh trai bạn có cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không? Nếu người gây thương tích chưa đủ các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích thì chỉ bị phạt hành chính về hành vi đánh nhau căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 05:48:52 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Bộ luật lao động thì tiên lương chỉ bị trừ vì những lý do như sau:

    Điều 101. Khấu trừ tiền lương

    1. Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 130 của Bộ luật này.

    2. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình.

    3. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.

    Như vậy, nếu không phải là trách nhiệm vật chất về bôi thường thiệt hại, trích đóng BHXH, BHYT, BHTN và công đoàn phí thì không được trừ lương của người lao động.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 05:45:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 104  Bộ luật Lao động năm 2012  quy định, thời giờ làm việc bình thường không quá 8 giờ trong 1 ngày và 48 giờ trong 1 tuần. Người sử dụng lao động có quyền quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 1 ngày, nhưng không quá 48 giờ trong 1 tuần.

    Khoản 1, Điều 97 Bộ luật lao động 2012 quy định, người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:

    - Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%.

    - Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%.

    - Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày. 

    Trường hợp người lao động cần nghỉ bù, người sử dụng lao động bố trí để người lao động nghỉ bù số thời gian do phải làm việc thêm giờ nên không được nghỉ. Nếu thời gian đi làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần bằng 8 giờ/ngày thì được nghỉ bù 8 giờ vào một ngày khác.

    Việc công ty trả lương cho người lao động làm thêm giờ vào ngày nghỉ hàng tuần bằng 200% đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm là đúng quy định. Trường hợp người lao động muốn nghỉ bù, thì được nghỉ bù 1 ngày và được hưởng 100% lương ngày là có lợi cho người lao động.

    Việc bố trí cho người lao động làm thêm nghỉ bù là bù cho số thời gian người lao động do làm thêm giờ không được nghỉ. Do đó, nghỉ bù vào ngày nghỉ  phép thì công ty phải căn cứ vào số thời gian mà người lao động đã làm thêm giờ không được nghỉ. Như vậy việc công ty tính 2 tiếng vào ngày chủ nhật thì sẽ có 4 tiếng nghỉ phép hưởng 100% lương là không phù hợp với quy định của pháp luật vì nghỉ phép là theo quy định bắt buộc vấn hưởng 100% lương chứ không được tăng lên như bạn đã nêu.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 05:31:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định: 

    “Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    ...”

    Như vậy cần phải xem xét mức độ tổn thương cơ thể của em bạn là bao nhiêu phần trăm và hung khí người phạm tội ở đây là gì thì mới có thể xác định được hành vi của người đánh em bạn có cấu thành tội cố ý gây thương tích hay không? Nếu người gây thương tích chưa đủ các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích thì chỉ bị phạt hành chính về hành vi đánh nhau căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP thì phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau.

    Ngoài ra, người có hành vi đánh bạn còn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 như sau:

    “Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

    Để bảo vệ quyền, lợi ích của mình, em bạn hoặc người khác trong gia đình bạn có thể tố giác hành vi của người đó với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 03:59:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hạt anh túc có thể gieo trồng nảy mầm thành cây thuốc phiện (bị cấm trồng tại VN). Tuy nhiên, hành vi này không thể xử lý hình sự, vì theo Viện KSND tối cao thì Luật công ước Quốc tế về các chất ma túy năm 1961 của Liên Hiệp Quốc chỉ quy định “thân cành cây anh túc là các thành phần của cây thuốc phiện (trừ hạt) sau khi cắt khỏi gốc”. Bộ luật Hình sự VN cũng chỉ quy định đối tượng phạm tội phải là quả thuốc phiện (khô hoặc tươi). Đồng thời, hạt anh túc không có trong danh mục hạt giống cây nông nghiệp nhưng cũng không nằm trong danh mục các mặt hàng cấm nhập vào VN. Do đó, bạn mang theo hạt anh túc khi đến Việt Nam là bất hợp pháp có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị tịch thu toàn bộ hạt trên để tiêu hủy.

  • Xem thêm     

    05/11/2019, 09:15:21 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

    Theo quy định trên, người bị nạn có thể yêu cầu bạn là người gây tai nạn bồi thường chi phí điều trị tại bệnh viện, thuốc thang cho đến khi sức khỏe ổn định. Ngoài ra, người bị nạn có thể yêu cầu thêm một khoản bồi thường hợp lý cho tổn thất về tinh thần.

    Về việc truy cứu trách hình sự

    Tại Điều 260 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 có quy định như sau:
    Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ 266

    1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    Như vậy, người gây tai nạn giao thông mà có hành vi vi phạm Luật giao thông đường bộ thì ngoài nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về mặt dân sự thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 260 Bộ luật hình sự. Nếu người bị nạn bị thương tích từ 61% trở lên do hành vi vi phạm luật giao thông của bạn gây ra thì bạn sẽ phải đối mặt với việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    04/11/2019, 04:29:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, bị cáo có nghĩa vụ có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Những trường hợp khác, bị cáo bắt buộc phải có mặt tại Tòa nếu không Tòa án có thể sử dụng biện pháp áp giải.

    Nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.

    Cũng theo quy định trên, Tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp:

    - Bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả;

    - Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa;

    - Bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận;

    - Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.

    Do đó, trong trường hợp này, em bạn khi nhận được giấy triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải hoặc nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Bạn có thể liên hệ cụ thể với cơ quan Tòa án để xem xét trường hợp của em mình bị xử lý cụ thể vào trường hợp nào nhé

  • Xem thêm     

    04/11/2019, 09:21:01 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo quy định tại Điều 102 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 về thời gian giải quyết chế độ thai sản:

    “Điều 102. Giải quyết hưởng chế độ ốm đau, thai sản

    1. Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc, người lao động có trách nhiệm nộp hồ sơ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 100, các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 101 của Luật này cho người sử dụng lao động.

    Trường hợp người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con, nhận nuôi con nuôi thì nộp hồ sơ quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 101 của Luật này và xuất trình sổ bảo hiểm xã hội cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

    2. Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ từ người lao động, người sử dụng lao động có trách nhiệm lập hồ sơ quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Luật này nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

    3. Trách nhiệm giải quyết của cơ quan bảo hiểm xã hội:

    a) Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định từ người sử dụng lao động, cơ quan bảo hiểm xã hội phải giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động;

    b) Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định từ người lao động thôi việc trước thời điểm sinh con, nhận nuôi con nuôi, cơ quan bảo hiểm xã hội phải giải quyết và tổ chức chi trả cho người lao động.”

    Theo như thông tin bạn cung cấp: bạn nộp hồ sơ hưởng chế độ thai sản trong tháng 13/9/2019 cho công ty nhưng bạn không nói rõ thời điểm cụ thể nên chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

    + Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ của bạn thì công ty sẽ lập hồ sơ và gửi cho cơ quan bảo hiểm xã hội.

    + Cơ quan bảo hiểm sẽ giải quyết và chi trả bảo hiểm cho bạn trong thời gian giải quyết chế độ thai sản là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ.

  • Xem thêm     

    29/10/2019, 09:27:00 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành thì người sử dụng lao động khi tuyển dụng lao động Việt Nam phải tuân theo pháp luật. Bộ luật lao động hiện hành không có quy định về hủy hợp đồng lao động mà chỉ có quy định người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng với người sử dụng lao động khi người sử dụng lao động vi phạm những quyền lợi sau: 

    Điều 37 – Bộ luật lao động 2012. Quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động

    1. Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn trong những trường hợp sau đây:

    b) Không được trả lương đầy đủ hoặc trả lương không đúng thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng lao động;

    2. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại khoản 1 Điều này, người lao động phải báo cho người sử dụng lao động biết trước:
    a) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và g khoản 1 Điều này;

    b) Ít nhất 30 ngày nếu là hợp đồng lao động xác định thời hạn; ít nhất 03 ngày làm việc nếu là hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng đối với các trường hợp quy định tại điểm d và điểm đ khoản 1 Điều này;

    Như vậy, nếu bạn chấm dứt hợp đồng lao động  thuộc 1 trong những trường hợp trên thì sẽ thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Theo đó, nghĩa vụ bồi thường của bạn được quy định tại Điều 43. Nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật

    “1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

    2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

    3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”

    Như vậy, nếu bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật thì bạn sẽ phải bồi thường chi phí đào tạo theo cam kết đã thỏa thuận và quy định tại Điều 62 BLLĐ.

    Theo Điều 62 BLLĐ, thì chi phí đào tạo gồm: “…3. Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài.”

    Như vậy, theo quy định trên thì bạn không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trước thời hạn đã cam kết đào tạo tại Công ty mà bạn chỉ có quyền yêu cầu công ty trả lương theo cam kết đào tạo và sửa đổi bổ sung lại hợp đồng lao động với bạn về mức tiền lương hai bên đã cam kết. Trường hợp này bạn có thể gửi đơn khiếu nại trực tiếp lên phía chủ sở hữu công ty hoặc khiếu nại trực tiếp lên phòng lao động thương binh và xã hội để yêu cầu được giải quyết. Trong trường hợp gửi đơn khiếu nại không giải quyết được quyền lợi của bạn thì bạn có thể khởi kiện trực tiếp lên Tòa án nhân dân quận, huyện nơi công ty có trụ sở để giải quyết.

  • Xem thêm     

    28/10/2019, 04:56:46 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trong trường hợp trên nhưng nếu 2 bên chỉ có cam kết đào tạo mà không có HĐLĐ thì sẽ áp dụng cam kết đào tạo bạn nhé.

  • Xem thêm     

    28/10/2019, 04:53:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Khoản 1 Điều 468 Luật Dân sự năm 2015 quy định:

    “Điều 468. Lãi suất

    1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận.

    Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

    Trường hợp lãi suất theo thỏa thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất vượt quá không có hiệu lực.

    2. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”

    Lãi suất tối đa mà các bên thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm tức là không được vượt quá 1,67%/tháng.

    Tội cho vay nặng lãi theo quy định của Bộ luật hình sự, tại Điều 163 có quy định như sau:

    “Điều 201. Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự

    1. Người nào trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.”.

    Theo đó, trong giao dịch dân sự mà cho vay với lãi suất gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất quy định trong Bộ luật dân sự và tính chất chuyên bóc lột của hành vi cho vay lãi nặng có thể được thể hiện ở chỗ: người phạm tội thực hiện hành vi cho vay lãi nặng nhiều lần, hành vi mang tính chuyên nghiệp, người phạm tội lấy việc cho vay lãi nặng làm một nghề kiếm sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

    Như vậy, chỉ cấu thành tội cho vay nặng lãi khi thỏa mãn 2 dấu hiệu được nêu ở trên.

    Vậy trong trường hợp của bạn, bạn cho vay với mức lãi suất 7.000 đồng/1 triệu/1 ngày nếu số lợi bất chính bạn thu được đã tù 40.000.000 đồng trở lên thì bạn sẽ phạm tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự theo quy định nêu trên. Nếu số lãi bạn thu được chưa đến 40.000.000 đồng thì bạn có thể bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tương tự. Bạn cũng nên lưu ý rằng có thể phần lãi suất này bạn không đưa vào hợp đồng nhưng trên thực tế người vay vẫn phải trả khoản này nên không loại trừ việc có ngươi làm chứng hoặc có bằng chứng như chứng từ chuyển khoản ngân hàng, ghi âm, ghi hình việc trả lãi. Bạn nên chỉ đòi phần tiền gốc và mức lãi suất mà pháp luật cho phép, phần lãi suất vi phạm bạn nên xóa cho người vay.

  • Xem thêm     

    28/10/2019, 02:57:08 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Văn bản số 806/BHXH-CĐCS hướng dẫn thực hiện chế độ BHXH đối với cán bộ cấp xã.

    Tại Mục I Văn bản này hướng dẫn: Đối tượng thực hiện chế độ BHXH là đối tượng quy định tại Điều 3 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP, được cụ thể hóa tại điểm 1, Mục I Thông tư liên tịch số 99/1998/TTLT-TCCP-BTC-BLĐTBXH, bao gồm: Bí thư đảng ủy xã; Phó Bí thư đảng ủy xã; Chủ tịch HĐND xã; Chủ tịch UBND xã; Phó Chủ tịch HĐND xã, Phó Chủ tịch UBND xã; Chủ tịch Mặt trậnTổ quốc Việt Nam, Trưởng các đoàn thể (Hội phụ nữ, Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh); Xã đội trưởng; Trưởng công an xã; Ủy viên UBND xã. Các chức danh khác thuộc UBND xã; 4 chức danh chuyên môn gồm: Địa chính, Tư pháp – Hộ tịch, Tài chính – Kế toán, Văn phòng UBND – Thống kê tổng hợp.

    Những cán bộ xã nói trên tính đến ngày 1/1/1998 còn đang làm việc và được hưởng sinh hoạt phí theo Nghị định số 09/1998/NĐ-CP.

    Theo điểm 2, Mục II Văn bản số 806/BHXH-CĐCS, căn cứ vào danh sách đối tượng cán bộ xã do Chủ tịch UBND xã lập theo mẫu và tờ khai cấp sổ BHXH, BHXH huyện soát xét và đề nghị BHXH tỉnh, thành phố xét duyệt cấp sổ BHXH cho từng cán bộ xã.

    Cơ sở để xét duyệt thời gian công tác ở xã trước ngày 1/1/1998 được tính là thời gian tham gia BHXH của  từng cán bộ xã  ghi trong mẫu và tờ khai cấp sổ BHXH cũng như ghi trong sổ BHXH là danh sách do Chủ tịch UBND cấp xã lập, Phòng Tổ chức chính quyền, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội huyện duyệt, Ban Tổ chức quyền tỉnh quyết định về thời gian công tác trước ngày 1/1/1998 để tính hưởng BHXH.

    Xác định thời gian công tác ở xã

    Tại điểm 3, Mục II Văn bản này hướng dẫn xác định thời gian công tác ở xã trước ngày 1/1/1998 được tính là thời gian có tham gia BHXH như sau:

    “Với các chức danh cán bộ xã quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP nếu công tác liên tục đến tháng 1/1998 thì thời gian giữ các chức danh trước tháng 1/1998 đó được tính hưởng BHXH.

    Đối với cán bộ xã thuộc đối tượng nêu tại Mục I trên nếu có thời gian liên tục là cán bộ xã trước tháng 1/1998 với các chức danh quy định tại tiết a, điểm 15 Thông tư số 13/NV ngày 4/9/1972 của Bộ Nội vụ (Nay là Bộ Lao động thương binh xã hội) thì thời gian đó được tính hưởng BHXH.

    Trường hợp trước tháng 1/1998 vừa có thời gian giữ các chức danh nêu tại Mục I, vừa có thời gian liên tục giữ chức vụ chủ chốt ở xã nêu tại tiết a, điểm 15 Thông tư số 13/NV và công tác liên tục đến tháng 1/1998 thì thời gian trước tháng 1/1998 được tính là thời gian có tham gia BHXH.

    Các trường hợp trên, trong quá trình công tác ở xã trước tháng 1/1998 nếu có thời gian được cử đi học chuyên môn, chính trị hoặc nếu bị cách quãng không quá 12 tháng thì cũng được coi là thời gian công tác liên tục”.

    Trường hợp bạn có thời gian từ trước 1995 giữ chức vụ được nêu Phó Bí thư xã đoàn (là chức danh cán bộ xã quy định tại Điều 3 Nghị định số 09/1998/NĐ-CP)

    Áp dụng hướng dẫn tại tiết 3.3, điểm 3, Mục II Văn bản số 806/BHXH-CĐCS ngày 14/7/1998 của BHXH Việt Nam, do trong quá trình công tác ở xã trước tháng 1/1998 của bạn nên thời gian công tác ở xã của bạn đến trước tháng 1995 được tính là thời gian công tác liên tục và không được tính là thời gian có tham gia BHXH.

    Theo đó, việc kê khai, xác định thời gian công tác ở xã được coi là thời gian có tham gia BHXH của bạn phải là đúng quy định. Thời gian công tác có tham gia BHXH của bạn được tính từ tháng 12/1994 đến nay căn cứ vào diễn biến quá trình công tác đóng BHXH ghi trong Sổ BHXH của bạn đã được cấp.

    Hiện nay, việc giải quyết tồn tại về chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã áp dụng quy định tại Điều 16 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP (đã được bổ sung khoản 3b sau khoản 3, Điều 16 theo khoản 2, Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ-CP) và hướng dẫn tại Điều 8 Thông tư số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH và Thông tư số 24/2013/TT-BLĐTBXH (hướng dẫn việc tính thời gian công tác để tính hưởng BHXH theo quy định tại khoản 2, Điều 1 Nghị định số 29/2013/NĐ-CP), đề nghị bạn tham khảo để rõ.

  • Xem thêm     

    21/10/2019, 10:44:00 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Việc đóng BHXH là nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động khi ký kết hợp đồng lao động. Trong trường hợp không đóng, cả người lao động và người sử dụng lao động đều bị phạt.

    Theo khoản 1, Điều 142 Bộ luật Lao động 2012 hiện hành, tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho người lao động, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.

    Quy định này được áp dụng đối với cả người học nghề, tập nghề và thử việc.

    Theo Điều 39 Luật BHXH mới nhất, người lao động được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:

    - Bị tai nạn lao động thuộc một trong các trường hợp:

    + Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc;

    + Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động;

    + Trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.

    - Bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn thuộc trường hợp trên.

    Điều 145 Bộ luật Lao động 2012 quy định quyền của người lao động bị tai nạn lao động như sau:

    - Người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động theo quy định;

    - Người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà người sử dụng lao động chưa đóng BHXH cho cơ quan bảo hiểm xã hội, thì được người sử dụng lao động trả khoản tiền tương ứng với chế độ tai nạn lao động.

    Như vậy, người lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc mà chưa đóng BHXH bị tai nạn lao động vẫn được bồi thường, khoản tiền này sẽ do người sử dụng lao động trả tương ứng với chế độ tai nạn lao động.

    Việc chi trả có thể thực hiện một lần hoặc hàng tháng theo thỏa thuận của các bên.

  • Xem thêm     

    21/10/2019, 11:22:12 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2012 quy định về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

    1. Hết hạn hợp đồng lao động, trừ trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 192 của Bộ luật này.

    2. Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động.

    3. Hai bên thoả thuận chấm dứt hợp đồng lao động.

    4. Người lao động đủ điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội và tuổi hưởng lương hưu theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật này.

    5. Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.

    6. Người lao động chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết.

    7. Người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Toà án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết; người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

    8. Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại khoản 3 Điều 125 của Bộ luật này.

    9. Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật này.

    10. Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật này; người sử dụng lao động cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế hoặc do sáp nhập, hợp nhất, chia tách doanh nghiệp, hợp tác xã.

    Điều 47 Bộ luật Lao động 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động như sau:

    1. Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng.

    2. Trong thời hạn 7 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.

    3. Người sử dụng lao động có trách nhiệm hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội và những giấy tờ khác đã giữ lại của người lao động.

    Đến nay Bộ luật lao động 2012 chỉ có quy định về việc trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn thì Người sử dụng lao động có trách nhiệm báo trước 15 ngày về việc chấm dứt hợp đồng lao động cho người lao động được biết mà không có quy định về việc khi hết hạn Hợp đồng lao động người lao động có trách nhiệm thông báo trước về việc chấm dứt này.

    Căn cứ theo quy định trên, thì khi hết hạn hợp đồng trong thời hạn 30 ngày các bên có trách nhiệm ký kết hợp đồng mới, hết thời hạn này nếu người lao động vẫn làm việc bình thường thì HĐLĐ mới sẽ tự động được xác lập. Theo đó, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày HĐLĐ hết hạn các bên có quyền chấm dứt HĐLĐ. Bởi vậy, việc người lao động nghỉ việc vào ngày 20/10/2019 là vẫn nằm trong phạm vi 30 ngày này nên hành vi này của người lao động không hề trái với pháp luật lao động. Do đó, công ty vẫn phải thực hiện trách nhiệm trả đầy đủ tiền lương cho theo ngày công lao động thực tế đã làm việc. 

    Do vậy, khi hết hạn hợp đồng người lao động có quyền nghỉ việc mà không bắt buộc phải thông báo cho người sử dụng lao động.

  • Xem thêm     

    15/10/2019, 09:50:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác như sau:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    …”

    Như vậy, với trường hợp của bạn mặc dù phía bên kia và bạn có hành vi đánh nhau nhưng đã gây thương tích cho bạn với tỷ lệ thương tật. Do đó theo yêu cầu của phía bên bị thiệt hại có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

    Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại như sau:

    “1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    2. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    3. Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

    Căn cứ những quy định trên, nếu trường hợp của bạn thuộc khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự nhưng theo như bạn nói bạn muốn rút đơn thì người gây thương tích cho bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu tỷ lệ tổn thương dưới 30%), nhưng vẫn phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho người bị hại.

  • Xem thêm     

    14/10/2019, 10:07:59 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 17 và Điều 18 Thông tư liên tịch số 163/2013/TTLT-BTC-BNV (còn hiệu lực đến hết ngày 14/5/2018) quy định phụ cấp trách nhiệm công việc kế toán trưởng là 0,2 so với mức lương cơ sở và  phụ cấp trách nhiệm công việc phụ trách kế toán là 0,1 so với mức lương cơ sở; không thấy có quy định về phụ cấp trách nhiệm đối với kế toán viên.

    Trường hợp bạn là kế toán viên kiêm nhiệm chức danh kế toán đơn vị khác không phải là kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu đơn vị khác, nên không thuộc đối tượng hưởng chế độ phụ cấp kiêm nhiệm quy định tại Thông tư số 78/2005/TT-BNV ngày 10/8/2005 của Bộ Nội vụ (còn hiệu lực).

    Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ kế toán, quy mô hoạt động và tình hình ngân sách của cơ quan, Lãnh đạo phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có thể vận dụng, quyết định đối với kế toán viên kiêm nhiệm việc kế toán tại đơn vị trực thuộc được hưởng phụ cấp trách nhiệm công việc.

    Trường hợp của bạn đang thuộc biên chế trả lương tại Trung tâm dạy nghề của huyện, nếu có quyết định hưởng phụ cấp thì phòng Nông nghiệp và phát triển nông thôn có trách nhiệm trả phụ cấp cho bạn cùng lúc với tiền lương hàng tháng.

  • Xem thêm     

    14/10/2019, 09:55:51 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Điều 118, Bộ luật Lao động năm 2012 thì vi phạm kỷ luật lao động được hiểu là sự vi phạm những quy định về việc tuân theo thời gian, công nghệ và điều hành sản xuất, kinh doanh trong nội quy lao động của công ty đã có hiệu lực pháp luật.

    Căn cứ quy định tại khoản 2, Điều 126, Bộ luật Lao động năm 2012 thì “Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật này”. Do vậy, trong trường hợp người lao động trong công ty bạn đã có hành vi vi phạm kỷ luật lao động là đánh bạc nên công ty đã kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương 6 tháng, và người này lại thực hiện hành vi vi phạm Quy định về an toàn lao động dẫn đến gây sự cố mất an toàn đó thì sẽ không xem xét coi là tái phạm theo quy định của pháp luật lao động vì trường hợp người lao động không phải lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật trước đó.

75 Trang «<23242526272829>»