Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<15161718192021>»
  • Xem thêm     

    21/06/2020, 10:08:43 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Về vấn đề của bạn, luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Theo quy định của pháp luật tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội thì điều kiện hưởng chế độ thai như sau:

    :1.  Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ mang thai;

    b) Lao động nữ sinh con;

    c) Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ;

    d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

    đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

    e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

    2.  Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

    3.  Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.

    4.  Người lao động đủ điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này mà chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc thôi việc trước thời điểm sinh con hoặc nhận con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định tại các Điều 34, 36, 38 và khoản 1 Điều 39 của Luật này.

    Chiểu theo quy định trên thì điều kiện để lao động nữ sinh con được hưởng chế độ thai sản khi đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên nhưng phải trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con.”

    Đối chiếu với trường hợp của bạn, bắt đầu đóng bảo hiểm 11/2019 nhưng đến tháng 2-3-4 thì Công ty nghỉ dịch covit-19 nên không cho đóng bảo hiểm nghỉ việc! Bạn bắt đầu đóng lại tháng 5,6 và 7 nhưng bạn dự sinh 30/7 thì liệu còn thiếu 2 ngày là đủ 6 tháng nên bạn sẽ không được hưởng tiền trợ cấp thai sản theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    21/06/2020, 09:56:31 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo Luật viên chức năm 2010 có hai phương thức để viên chức đang làm việc ở đơn vị sự nghiệp công lập này, muốn thay đổi nơi làm việc, sang làm việc ở một đơn vị sự nghiệp công lập khác là:

    - Thôi việc theo nguyện vọng, chấm dứt hợp đồng làm việc ở đơn vị sự nghiệp này, rồi thi tuyển vào đơn vị sự nghiệp khác. Nếu trúng tuyển thì được ký kết hợp đồng làm việc.

    - Xin chuyển công tác từ đơn vị sự nghiệp này sang đơn vị sự nghiệp khác. Được đơn vị đang làm việc đồng ý chấm dứt hợp đồng làm việc. Được đơn vị nơi chuyển đến đồng ý tiếp nhận theo hình thức xét tuyển, hoặc xét tuyển đặc cách và ký kết hợp đồng làm việc.

    Trong trường hợp này, bạn có thể trình bày lý do thỏa thuận với thủ trưởng đơn vị xin chấm dứt hợp đồng lao động hoặc căn cứ theo khoản 5 Điều 29 luật viên chức năm 2010 quy định thì bạn có thể đơn phương chấm dứt hợp đồng làm việc với lý do: “Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng”. Sau đó, dựa vào hai phương thức trên để tiến hành thay đổi, chuyển sang làm việc ở một đơn vị, sự nghiệp khác.

  • Xem thêm     

    18/06/2020, 10:21:40 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp tai nạn lao động khi đang làm việc thì người lao động được hưởng những chế độ sau:

    Người lao động được người sử dụng lao động trả đủ lương theo hợp đồng lao động đã giao kết và không được đơn phương chấm dứt hợp đồng trong thời gian bạn đang điều trị và được công ty cùng với cơ quan bảo hiểm thanh toán các chi phí điều trị.

    Điều 144 Bộ luật lao động năm 2012 quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động như sau:

    “1. Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

    2. Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.

    3. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật này.”

    Theo quy định này, công ty sẽ cùng với tổ chức bảo hiểm chi trả những khoản chi phí trong danh mục do bảo hiểm ý tế chi trả. Và chi trả những khoản chi phí trong quá trình điều trị của người lao động không nằm trong danh mục bảo hiểm chi trả.

    Ngoài ra, trong thời gian người lao động nghỉ việc để điều trị chấn thương người sử dụng lao động có trách nhiệm trả đủ lương theo hợp đồng lao động đã giao kết và không được đơn phương châm dứt hợp đồng trong thời gian người lao động đang điều trị.

    Do bạn đã tham gia bảo hiểm nên bạn được hưởng quyền lợi theo điều 145 Bộ luật lao động năm  2012: “Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc được hưởng chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội”.

    Theo quy định cần phải xác định chính xác tỷ lệ (%) suy giảm khả năng lao động để xác định chính xác mức tiền trợ cấp hàng tháng  cơ quan bảo hiểm xã hội phải chi trả cho trường hợp của người lao động. Nếu người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng, còn trường hợp của người lao động chỉ bị suy giảm khả năng lao động từ 20% như bạn nêu thì không được trợ cấp hàng tháng này.

    Ngoài ra, nếu tai nạn xảy ra do lỗi của người lao động thì áp dụng quy định tại khoản 4 điều 145 Bộ luật Lao động năm 2012: “ Trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này”.

    Nếu trong biên bản ghi nhận tai nạn xảy ra không phải do lỗi của người lao động thì áp dụng khoản 3 điều 145 Bộ luật Lao động năm 2012 :

    “Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:

    a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

    b) Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.”

    Như vậy, trường hợp tai nạn lao động của người lao động thì họ sẽ được hưởng quyền lợi sau: được  công ty cùng với tổ chức bảo hiểm xã hội chi trả các khoản điều trị do tai nạn lao động; trong thời gian điều trị đó công ty vẫn phải trả lương đầy đủ theo tháng cho bạn; bạn sẽ được tổ chức bảo hiểm trợ cấp hàng tháng với mức hỗ trợ cụ tính theo mức suy giảm sức lao động và mức lương hàng tháng của bạn trước đó. Việc BHXH yêu cầu hoàn trả lại số tiền hưởng chế độ ốm đau thì mới được trợ cấp tai nạn là không đúng với quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    18/06/2020, 01:07:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo điều 134, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định về tội cố ý gây thương tích như sau:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

    5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Làm chết 02 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

    - Như vậy đối với tội cố ý gây thương tích phải căn cứ vào mức độ tổn thương cơ thể sẽ bị xử lý theo các mức độ vi phạm:

    +) Tỷ lệ thương tích từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc các trường hợp như: Dùng hung khí nguy hiểm, dùng a-xít sunfuric (H2SO4), có tổ chức...thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

    +) Tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    +) Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, thuộc các trường hợp sau: Làm chết 02 người trở lên, gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    Như vậy, Phạm tội cố ý gây thương tích sẽ bị phạt luật xử lý nghiêm tuỳ theo mức độ nghiêm trọng và tỷ lệ tổn thương của cơ thể. Tuy nhiên, vì tính chất của đồng phạm có ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm chung, còn tính chất và mức độ tham gia của mỗi người đồng phạm là yếu tố ảnh hưởng đến tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi của mỗi người đồng phạm.

    Ở đây , cả nếu người người đồng phạm đều không có tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ , phạm cùng một tội nhưng vẫn có thể bị tuyên mức án khác nhau vì việc tuyên mức hình phạt còn phụ thuộc vào mức độ phạm tội của từng người trong vụ án.

  • Xem thêm     

    16/06/2020, 09:06:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Các tội phạm về ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Người phạm tội khi bị bắt được quyền nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Một trong những người bào chữa được ưu tiên là mời luật sư. Để được tư vấn Thuê Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự bạn hãy liên lạc trực tiếp với luật sư để có những trao vấn đề được cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    16/06/2020, 11:33:15 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Khoản 1đ và Điều 4 Nghị định 34/2012/NĐ-CP quy định Thời gian không được tính hưởng phụ cấp công vụ đối với quân nhân bao gồm:

    - Thời gian đi công tác, làm việc học tập ở nước ngoài...;

    - Thời gian nghỉ việc không hưởng lương liên tục từ 01 tháng trở lên;

    - Thời gian nghỉ việc hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội;

    - Thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam.

    Như vậy, theo quy định này thì trường hợp quân nhân nằm viện mà không hưởng lương liên tục từ 01 tháng trở lên hoặc thời gian này quân nhân được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội thì sẽ không được hưởng phụ cấp công vụ. Bạn là quân nhân đi viện chữa bệnh 20 ngày, toàn bộ chi phí chữa bệnh bảo hiểm chi trả trong khi đó bạn vẫn nhận lương tại đơn vị thì thời gian nằm viện bạn vẫn được hưởng phụ cấp công vụ.

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 05:19:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 331 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì “Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm” nếu xét thấy bản án hoặc quyết định sơ thẩm đó chưa thỏa đáng.

    Như vậy, nếu thấy mức hình phạt đối với mình còn nặng, bạn hoàn toàn có quyền kháng cáo bản án của Tòa án.

    Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, hoặc kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án tại Tòa án trong trường hợp chí bạn vắng mặt tại phiên toà, chú bạn phải gửi đơn kháng cáo theo mẫu đến Tòa án đã xử sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm.

    Tuy nhiên nếu bạn có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nhưng bị Tòa tuyên án với mức hình phạt như bạn nêu mà cảm thấy là quá nặng thì có thể cân nhắc để kháng cáo bản án sơ thẩm xin giảm hình phạt án treo đồng thời xin giảm nhẹ 36 tháng thử thách bởi vì:

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 54 BLHS 2015 thì “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”

    Trong trường hợp Tòa án giảm mức hình phạt xuống dưới 3 năm tù, nếu xét thấy có đủ căn cứ để cho hưởng án treo thì Tòa án sẽ cho bạn hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, khi xét thấy hình phạt trong bản án đối với mình quá nặng, bạn có quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm. Tuy nhiên, việc Tòa án cấp phúc thẩm có chấp nhận yêu cầu kháng cáo hay không còn phụ thuộc vào việc chứng minh các yêu cầu kháng cáo có căn cứ hay không?

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 05:04:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hiện nay, pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm đánh ghen. Tuy nhiên, hành vi đánh ghen có thể được hiểu là một bên dùng lời nói (mắng, chửi, cãi nhau,…) hoặc hành động thô bạo tác động đến người khác do ghen tuông. Trong một số trường hợp, đánh ghen có thể bị xử phạt hành chính về hành vi vi phạm quy định về trật tự công cộng theo Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP, cụ thể là:

    - Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    - Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau; Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    - Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng; Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau; Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác.

    - Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ

    Trường hợp nghiêm trọng hơn, người có hành vi đánh ghen có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và Tội làm nhục người khác theo Điều 134, Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 và có thể phải chịu mức phạt tù lên đến 19 năm.

    Ngoài ra, bạn bị đánh ghen cũng có quyền khởi kiện đòi bồi thường về sức khỏe và danh dự đã bị xâm hại theo quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tại Bộ luật Dân sự 2015.

    Khi nhận thấy có dấu hiệu bị làm nhục, bị gây thương tích như trên, đầu tiên bạn là người bị đánh ghen cần phải tố cáo với cơ quan điều tra có thẩm quyền gồm:Cơ quan cảnh sát điều tra; Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Trường hợp cơ quan điều tra khởi tố, thì có thể yêu cầu bồi thường trong phần yêu cầu trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Trường hợp cơ quan điều tra thông báo kết quả giải quyết không có dấu hiệu hình sự, thì có thể khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để đòi bồi thường theo Điều 35 và Điều 39 và Điều 40 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 04:55:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như nội dung trên, có có thể xảy ra: nếu bạn không biết việc những người kia để đánh người hoặc mức độ thương tích của người bị hại chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như không bị khởi tố. Nếu bạn biết việc bạn mình xúi dục những người kia để họ thực hiện hành vi cố ý gây thương tích và mức độ thương tích của người bị hại đủ để truy cứu trách nhiệm hình sự: trong trường hợp này bạn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với vai trò là người giúp sức trong vụ đồng phạm.

  • Xem thêm     

    15/06/2020, 04:45:17 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 49 Luật Việc làm quy định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau:

    Người lao động quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này đang đóng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) được hưởng trợ cấp thất nghiệp khi có đủ các điều kiện sau:

    - Chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, trừ các trường hợp sau: Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc trái pháp luật; Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.

    - Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 43 của Luật này; đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 43 của Luật này.

    - Đã nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm theo quy định tại khoản 1 Điều 46 của Luật này.

    - Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày, kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng BHTN, trừ các trường hợp sau đây: Thực hiện nghĩa vụ quân sự, nghĩa vụ công an; Đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; Chấp hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc; Bị tạm giam; chấp hành hình phạt tù; Ra nước ngoài định cư; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; Chết.

    Tại Khoản 2 Điều 12 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 quy định: Người lao động đang đóng BHTN là người lao động có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã đóng BHTN và được tổ chức BHXH xác nhận.

    Tháng liền kề bao gồm cả thời gian sau: Người lao động có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH; Người lao động có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị.

    Trường hợp của bạn đóng BHTN được 3 tháng thì chưa đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp.

  • Xem thêm     

    14/06/2020, 10:22:17 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Câu hỏi đã được trả lời đâu đó rồi!

  • Xem thêm     

    14/06/2020, 10:21:02 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 46 Luật Việc làm 2013:

    Điều 46. Hưởng trợ cấp thất nghiệp

    “1. Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc, người lao động nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm do cơ quan quản lý nhà nước về việc làm thành lập.

    …”

    Theo Điều 2 Quyết Định 959/QĐ – BHXH quy định việc chốt sổ BHXH là: “Chốt sổ BHXH: là ghi quá trình đóng BHXH, BHTN trên sổ BHXH của người tham gia dừng đóng BHXH tại một đơn vị.”

    Trong trường hợp trên của bạn, sau khi chấm dứt HĐLĐ thì trong thời hạn 3 tháng bạn phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp thì mới được hưởng trợ cấp thất nghiệp, hiện tại đã quá thời hạn trên vậy bạn không thể thực hiện nộp hồ sơ để hưởng trợ cấp thất nghiệp. Hiện tại bạn muốn gia hạn thời gian nghỉ việc để có thể được hưởng trợ cấp, điều này cũng không khả thi vì Công ty bạn đã thực hiện việc chốt sổ BHXH từ cùng thời điểm ban hành quyết định cho nghỉ việc, việc chốt sổ BHXH được thực hiện khi chấm dứt HĐLĐ, dừng đóng BHXH đối với người lao động.Tuy nhiên, nếu hời điểm chốt sổ BHXH có sau thời gian dài khi ban hành Quyết định chấm dứt Hợp đồng lao động thì bạn đề nghị Công ty sửa đổi bổ sung Quyết định chấm dứt HĐLĐ phù hợp với thời gian chốt sổ BHXH thì có thể đủ thời hạn 3 tháng để nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp.

  • Xem thêm     

    14/06/2020, 10:08:25 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Khoản 1 Điều 48 Bộ luật lao động 2012 có quy định như sau:

    “Điều 48. Trợ cấp thôi việc:1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.”

    Theo quy định trên, trường hợp bạn là người lao động có đơn xin thôi việc mà người sử dụng lao động đồng ý hoặc người lao động đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động đúng luật thì sẽ được hưởng trợ cấp thôi việc.

    Tuy nhiên trường hợp của bạn khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động và nghỉ liền không theo qui định thì thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Khi đó tại Điều 43 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật:

    “1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

    2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

    3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này”.

    Căn cứ theo các quy định nêu trên thì bạn đã đã có hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Do đó bạn sẽ không được nhận trợ cấp thôi việc theo quy định của pháp luật lao động.

  • Xem thêm     

    14/06/2020, 09:58:42 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 97 Bộ luật Lao động 2012 quy định:

    1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:

    a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;

    b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;

    c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng lương ngày.

    2. Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng 30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của ngày làm việc bình thường.

    3. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm 20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm vào ban ngày.

    Và cũng không có quy định nào của pháp luật về việc lương chính đến bao nhiêu thì không được hưởng tiền lương làm thêm giờ nên việc công ty không trả tiền lương làm thêm giờ cho bạn là trái quy định của pháp luật.

    Do đó, bạn có thể làm đơn khiếu nại gửi lên ban lãnh đạo công ty yêu cầu họ giải thích và giải quyết việc thanh toán tiền lương làm thêm giờ. Nếu công ty không trả lời thì chị có thể làm đơn khiếu nại gửi đến Phòng lao động thương binh xã hội quận/huyện nơi công ty có trụ sở.

  • Xem thêm     

    11/06/2020, 05:22:17 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012 về trợ cấp thôi việc. Cụ thể:

    Điều 48. Trợ cấp thôi việc

    1. Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

    2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

    3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.

    Nghị định 05/2015/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành chi tiết một số Điều của Bộ luật lao động:

    Điều 14. Trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm

    1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật Lao động cho người lao động đã làm việc thường xuyên cho mình từ đủ 12 tháng trở lên khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 Điều 36 và người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Lao động.

    ...

    3. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc. Trong đó:

    a) Thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động bao gồm: thời gian người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian thử việc, học nghề, tập nghề để làm việc cho người sử dụng lao động; thời gian được người sử dụng lao động cử đi học; thời gian nghỉ hưởng chế độ theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội; thời gian nghỉ hằng tuần theo Điều 110, nghỉ việc hưởng nguyên lương theo các Điều 111, Điều 112, Điều 115 và Khoản 1 Điều 116 của Bộ luật Lao động; thời gian nghỉ để hoạt động công đoàn theo quy định của pháp luật về công đoàn; thời gian phải ngừng việc, nghỉ việc không do lỗi của người lao động; thời gian nghỉ vì bị tạm đình chỉ công việc và thời gian bị tạm giữ, tạm giam nhưng được trở lại làm việc do được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kết luận không phạm tội;

    Như vậy, đối chiếu với trường hợp của bạn thì việc chấm dứt hợp đồng lao động dựa trên thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động (khoản 3 Điều 36) hoặc người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng quy định pháp luật - tức báo trước cho đơn vị 45 ngày làm việc trước khi nghỉ việc (hợp đồng không xác định thời hạn) hoặc 30 ngày làm việc nếu một trong các trường hợp quy định tại Điều 37 Bộ luật lao động và làm việc thường xuyên cho đơn vị từ 12 tháng trở lên thì đều đủ điều kiện được hưởng trợ cấp thôi việc (nhưng việc hưởng trợ cấp này phải trừ đi thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp - kể từ thời điểm tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp thì sẽ không được thanh toán trợ cấp thôi việc nữa).

    Trường hợp của bạn nên thương lượng với Công ty để họ chi trả trợ cấp thôi việc cho mình, nếu Công ty không chi trả cũng rất khó để đòi quyền lợi của mình vì có thể thấy tranh chấp lao động giữa bạn và công ty là tranh chấp lao động cá nhân với công ty là đã hết thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân được quy định tại Điều 202 Bộ luật lao động:

    “1. Thời hiệu yêu cầu hòa giải viên lao động thực hiện hòa giải tranh chấp lao động cá nhân là 06 tháng, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.

    2. Thời hiệu yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 01 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm.”

    Theo quy định của pháp luật, thời hiệu yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp lao động cá nhân là 1 năm, kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm. Khi hết thời hiệu khởi kiện Toà án sẽ không thụ lý giải quyết vụ án dân sự và trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự nếu có yêu cầu. Như vậy đối với trường hợp của bạn, việc Tòa án sẽ không giải quyết sự việc của bạn do hết thời hiệu.

  • Xem thêm     

    11/06/2020, 05:04:53 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định về điều kiện hưởng chế độ thai sản:

    “Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

    1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    b) Lao động nữ sinh con;

    2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.”

    Theo quy định trên, người lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thì được hưởng chế độ thai sản khi sinh. Như vậy bạn đã đóng BHXH từ 11/2019 đến nay thì đã được đủ hơn 6 tháng thì đã đủ thừa điều kiện hưởng trợ cấp thai sản như quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    10/06/2020, 09:50:12 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Khoản 1, Điều 5, Nghị định 24/2018/NĐ-CP thì:

    “1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi của người sử dụng lao động; cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp; doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; tổ chức dịch vụ việc làm, tổ chức có liên quan đến hoạt động tạo việc làm cho người lao động; tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người bị xâm phạm thực hiện khiếu nại đến người giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 15, khoản 1 Điều 16, khoản 1 Điều 17 và khoản 1 Điều 18 Nghị định này hoặc khởi kiện tại tòa án theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định này.”

    Khoản 1, Điều 15, Nghị định này lại quy định:

    “1. Người sử dụng lao động có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định, hành vi của mình bị khiếu nại”

    Theo đó, nếu bạn thấy những quyết định, hành vi của công ty nơi bạn làm việc là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn thì bạn có thể gửi khiếu nại lần đầu đến công ty yêu cầu giải quyết khiếu nại. Nếu công ty không giải quyết được trong thời hạn 07 ngày hoặc bạn không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì bạn có thể gửi khiếu nại lần hai đến Chánh Thanh tra Sở Lao động- Thương binh và Xã hội và khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu giải quyết theo quy định tại Khoản 2, khoản 3 Điều 15, Nghị định 24/2018/NĐ-CP:

    “2. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định tại Điều 23 hoặc quá thời hạn quy định tại Điều 20 Nghị định này mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện tại tòa án theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 10 Nghị định này hoặc thực hiện khiếu nại lần hai theo quy định sau đây:

    3. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai theo quy định tại Điều 31 hoặc quá thời hạn quy định tại Điều 28 Nghị định này mà khiếu nại không được giải quyết thì người khiếu nại có quyền khởi kiện vụ án tại tòa án theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 10 Nghị định này.”

    Như vậy, theo quy định này, bạn có thể thực hiện khiếu nại hành vi, quyết định của công ty nếu Công ty giải quyết không thỏa đáng như bạn nêu thì bạn có thể tiếp tục Chánh Thanh tra Sở Lao động- Thương binh và Xã hội và

    Vì em ở Hà Nội mà trụ sở Công ty lại ở Tp. HCM nên bắt buộc bạn phải gửi đơn khiếu nại qua đường bưu điện thì bạn phải gửi Chánh thanh tra của sở LĐTBXH. Bạn có thể liên hệ với cơ quan qua điện thoại để biết trước nhé

    Trong trường hợp muốn nhờ Luật sư tư vấn và khởi kiện ra toà để bảo vệ quyền lợi cho bạn (nếu có) ở Tp. HCM thì phải liên hệ trực tiếp hoặc qua điện thoại với luật sư để được tư vấn một cách cụ thể nhất nhé.

  • Xem thêm     

    10/06/2020, 09:13:30 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo : Ban hành Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học quy định nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng; các hành vi học sinh không được làm; khen thưởng kỷ luật như sau:

    “Điều 19. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng

    1. Nhiệm vụ và quyền hạn của Hiệu trưởng.......

    e) Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình tiểu học cho học sinh tiểu học (nếu có) của trường phổ thông có nhiều cấp học và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh;...."

    Điều 41. Các hành vi học sinh không được làm

    1. Xúc phạm nhân phẩm, danh dự, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ, nhân viên của nhà trường, người khác và học sinh khác.

    2. Gian lận trong học tập, kiểm tra, thi cử, tuyển sinh.

    3. Làm việc khác; sử dụng điện thoại di động hoặc máy nghe nhạc trong giờ học; hút thuốc, uống rượu, bia và sử dụng các chất kích thích khác khi đang tham gia các hoạt động giáo dục.

    4. Đánh nhau, gây rối trật tự, an ninh trong nhà trường và nơi công cộng.

    5. Lưu hành, sử dụng các ấn phẩm độc hại, đồi truỵ; đưa thông tin không lành mạnh lên mạng; chơi các trò chơi mang tính kích động bạo lực, tình dục; tham gia các tệ nạn xã hội.

    Điều 42. Khen thưởng và kỷ luật

    1. Học sinh có thành tích trong học tập và rèn luyện được nhà trường và các cấp quản lý giáo dục khen thưởng bằng các hình thức sau đây:

    a) Khen trước lớp, trước trường;

    b) Khen thưởng cho học sinh tiên tiến, học sinh giỏi;

    c) Cấp giấy chứng nhận, giấy khen, bằng khen, nếu đạt thành tích trong các kỳ thi, hội thi theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

    d) Các hình thức khen thưởng khác.

    2. Học sinh vi phạm khuyết điểm trong quá trình học tập, rèn luyện có thể được khuyên răn hoặc xử lý kỉ luật theo các hình thức sau đây:

    a) Phê bình trước lớp, trước trường;

    b) Khiển trách và thông báo với gia đình;

    c) Cảnh cáo ghi học bạ;

    d) Buộc thôi học có thời hạn.”

    Như vậy, học sinh đánh nhau đánh trong trường THPT dân tộc nội trú, với hành vi này là hành vi cấm, nói cách khác, hành vi này vi phạm nội quy của trường, lớp. Theo đó, hiệu trưởng có quyền xử lý kỉ luật đối với học sinh đánh nhau.

    Theo thông tin bạn cung cấp, hiệu trưởng có tổ chức cho hai gia đình gặp nhau để bàn bạc, và gia đình họ hàng hai bên đến quá đông. Việc hiệu trưởng yêu cầu chỉ cho bố mẹ của 2 bên gặp nhau và yêu cầu những người khác ra ngoài là không vi phạm pháp luật. Vì nhà trường vẫn đảm người có người đại diện hợp pháp của hai học sinh, đối với họ hàng, họ không phải là người đại diện theo pháp luật cho các học sinh đó. Mặt khác, họ hàng đến quá đông sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình bàn bạc thỏa thuận của hai bên. Hiện chưa có quy định nào của pháp luật quy định việc không cho họ hàng đi cùng gia đình đến giải quyết vụ việc đánh nhau là vi phạm pháp luật. Do đó, trong tình huống này, hiệu trưởng không vi phạm pháp luật.

    Theo khoản 2 Điều 42 Thông tư 12/2011/TT-BGDĐT thì học sinh đánh nhau có thể bị: phê bình trước lớp, trước trường; khiển trách và thông báo với gia đình; cảnh cáo ghi học bạ hoặc buộc thôi học có thời hạn. Việc áp dụng hình thức xử lý như thế nào phụ thuộc hành vi đánh bạn của học sinh kia. Do đó, bạn hoặc người đại diện gia đình bạn hoặc người bị đánh có thể kiến nghị, đề nghị bằng văn bản để lãnh đạo nhà trường xúc tiến xử lý hành vi vi phạm của học sinh đã đánh nhau kia, nếu lãnh đạo nhà trường không xử lý thì bạn có thể khiếu nại lên cấp phòng giáo dục hoặc sở giáo dục để được xử lý theo quy định.

  • Xem thêm     

    10/06/2020, 09:04:20 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 10 Nghị định 46/2010/NĐ-CP quy định thông báo nghỉ hưu như sau:

    “Điều 10. Thông báo nghỉ hưu.

    Trước 06 tháng tính đến thời điểm nghỉ hưu theo quy định tại Điều 9 Nghị định này, cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức phải ra thông báo bằng văn bản về thời điểm nghỉ hưu để công chức biết theo mẫu tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này và chuẩn bị người thay thế.”

    Như vậy, nếu bạn là công chức thì trước 6 tháng tính đến thời điểm nghỉ hưu thì cơ quan, tổ chức, đơn vị quản lý công chức của bạn phải ra thông báo bằng văn bản về thời điểm nghỉ hưu cho bạn biết về thời gian nghỉ hưu của mình. Tuy nhiên, ngày 03/6/2020 bạn nhận được Thông báo nghỉ hưu của Bí thư Huyện ủy ký ban hành ngày 01/6/2020 thời gia được nghỉ hưu từ 01/12/2020.  Việc Thông báo thiếu vài ngày là không đúng theo Nghị định 46/2010/NĐ-CP vì không đủ thời gian trước 6 tháng. Tuy nhiên, chỉ thiếu vài ngày thì cũng không phải là vấn đề quá quan trọng trong trường hợp này và không ảnh hưởng nghiêm trọng đến bạn khi nghỉ hưu.

  • Xem thêm     

    10/06/2020, 08:53:01 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại khoản 9 Điều 23 Nghị định số 33/2016/NĐ-CP quân nhân phục viên, xuất ngũ, thôi việc trước ngày 15/12/1993, sau đó chuyển sang làm việc có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (bao gồm cả người làm việc tại y tế xã, phường, thị trấn, giáo viên mầm non hoặc giữ các chức danh ở xã, phường, thị trấn trước ngày 1/1/1995 đã được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội) và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động mà không hưởng chế độ trợ cấp theo một trong các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với người tham gia kháng chiến, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế thì được cộng nối thời gian công tác trong Quân đội trước đó với thời gian có đóng bảo hiểm xã hội sau này để tính hưởng bảo hiểm xã hội.

    “9. Người lao động quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 2 Nghị định này đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc trước ngày 15 tháng 12 năm 1993, sau đó chuyển sang làm việc có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế (bao gồm cả người làm việc tại y tế xã, phường, thị trấn, giáo viên mầm non hoặc người giữ các chức danh ở xã, phường, thị trấn trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 đã được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội) và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động mà không hưởng chế độ trợ cấp theo một trong các quy định dưới đây thì được cộng nối thời gian công tác trong Quân đội, công an, cơ yếu trước đó với thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội sau này để tính hưởng bảo hiểm xã hội:

    a) Quyết định số 47/2002/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ đối với quân nhân, công nhân viên quốc phòng tham gia kháng chiến chống Pháp đã phục viên (giải ngũ, thôi việc) từ 31 tháng 12 năm 1960 trở về trước;

    b) Điểm a, khoản 1, Điều 1 Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg  ngày 08 tháng 11 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với một số đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước;

    c) Quyết định số 92/2005/QĐ-TTg ngày 29 tháng 4 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân là người dân tộc ít người thuộc Quân khu 7, Quân khu 9 tham gia kháng chiến chống Mỹ, về địa phương trước ngày 10 tháng 01 năm 1982;

    d) Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg ngày 27 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chế độ đối với quân nhân tham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác trong Quân đội đã phục viên, xuất ngũ về địa phương (sau đây được gọi tắt là Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg);

    đ) Quyết định số 38/2010/QĐ-TTg ngày 06 tháng 5 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 142/2008/QĐ-TTg;

    e) Quyết định số 53/2010/QĐ-TTg ngày 20 tháng 8 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về chế độđối với cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân tham gia kháng chiến chống Mỹ có dưới 20 năm công tác trong công an nhân dân đã thôi việc, xuất ngũ về địa phương;

    g) Quyết định số 62/2011/QĐ-TTg ngày 09 tháng 11 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ, chính sách đối với đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp bạn Lào sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.”

    Sau đó, Thông tư liên tịch số 148/2007/TTLT-BQP-BCA-BLADTBXH được ban hành ngày 14/9/2007 quy định tại điểm a, Khoản 4, mục IV quy định:

    “Hạ sỹ quan, binh sỹ phục vụ tại ngũ có thời hạn rồi xuất ngũ ngay thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội ứng với thời gian phục vụ tại ngũ để tính hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần, hoặc bảo lưu trên sổ bảo hiểm xã hội chỉ tính từ khi Luật Bảo hiểm xã hội có hiệu lực thi hành (từ tháng 01/2007 trở đi)”

    Căn cứ quy định nêu trên, hiện nay pháp luật chỉ có quy định chế độ giải quyết đối với các trường hợp xuất ngũ trước ngày 15/12/1993 và từ tháng  01/2007 trở đi. Còn đối với trường hợp của anh theo trình bày, anh xuất ngũ ngày 15/12/1993 thì thuộc đối tượng được cộng nối thời gian công tác trong quân đội với thời gian công tác có đóng bảo hiểm xã hội sau này để tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội khi thôi công tác..

75 Trang «<15161718192021>»