Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<19202122232425>»
  • Xem thêm     

    13/05/2020, 07:55:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Điều 25 Nghị định 19/2019/NĐ-CP về họ, hụi, biêu, phường quy định Giải quyết tranh chấp như sau:

    “1. Trong trường hợp có tranh chấp về họ hoặc phát sinh từ họ thì tranh chấp đó được giải quyết bằng thương lượng, hoà giải hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

    2. Chủ họ, thành viên, cá nhân, tổ chức liên quan có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cho vay lãi nặng, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, huy động vốn trái pháp luật hoặc các hành vi vi phạm pháp luật khác khi tham gia quan hệ về họ.”.

    Theo quy định trên, nếu hiện tại vỡ hụi mà chủ hụi không chịu trả số tiền trên thì trước tiên các bên có thể thương lượng, hòa giải lại với nhau, nếu không thương lượng hòa giải không thành thì 1 hoặc nhiều người tham gia họ có thể khởi kiện đến TAND để giải quyết tranh chấp trên, tuy nhiên kèm theo đơn khởi kiện cần phải cung cấp các chứng cứ liên quan đến sự tồn tại của hụi.

    Ngoài ra trong trường hợp chủ hụi có hành vi chiếm đoạt tài sản thì bạn có thể làm đơn tố giác tội phạm gửi đến Cơ quan Công an để giải quyết. Theo quy định tại Điều 175 BLHS 2015 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:

    Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

     …

    4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Căn cứ theo quy định trên nếu như chủ hụi mà có các hành vi bỏ trốn, gian dối để chiếm đoạt tài sản, hoặc sử dụng số tiền đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không còn khả năng chi trả thì có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản người khác. Tuy nhiên với tình hình hiện tại các bên nên có sự thương lượng hòa giải để giải quyết, nếu không được thì yêu cầu đến TAND để giải quyết theo quan hệ Dân sự.

  • Xem thêm     

    13/05/2020, 07:45:39 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Khi bị tai nạn lao động thì người lao động hưởng các quyền lợi sau:

    - Về phần chi phí cứu chữa, sẽ do bảo hiểm y tế và người sử dụng lao động đồng chi trả theo quy định sau:

    “Điều 144. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

    1. Thanh toán phần chi phí đồng chi trả và những chi phí không nằm trong danh mục do bảo hiểm y tế chi trả đối với người lao động tham gia bảo hiểm y tế và thanh toán toàn bộ chi phí y tế từ khi sơ cứu, cấp cứu đến khi điều trị ổn định đối với người lao động không tham gia bảo hiểm y tế.

    2. Trả đủ tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp phải nghỉ việc trong thời gian điều trị.

    3. Bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp theo quy định tại Điều 145 của Bộ luật này.”

    Trong thời gian phải nghỉ việc để điều trị thì người lao động vẫn được hưởng nguyên lương. Người lao động sẽ được người sử dụng lao động bồi thường theo quy định sau tương ứng vào tỷ lệ thương tật của mình:

    Điều 145. Quyền của người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

    ...

    3. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do lỗi của người lao động và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên thì được người sử dụng lao động bồi thường với mức như sau:

    a) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm từ 5,0% đến 10% khả năng lao động; sau đó cứ tăng 1,0% được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80%;

    b) Ít nhất 30 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động.

    4. Trường hợp do lỗi của người lao động thì người lao động cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất bằng 40% mức quy định tại khoản 3 Điều này.

    Khi bị tai nạn lao động dù là do lỗi của người lao động thì người sử dụng lao động vẫn phải bồi thường cho họ.

    Người lao động sẽ được hưởng trợ cấp tai nạn lao động từ cơ quan bảo hiểm xã hội nếu đáp ứng đủ điều kiện theo quy định như sau:

    “Điều 45. Điều kiện hưởng chế độ tai nạn lao động

    Người lao động tham gia bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được hưởng chế độ tai nạn lao động khi có đủ các điều kiện sau đây:

    1. Bị tai nạn thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, kể cả khi đang thực hiện các nhu cầu sinh hoạt cần thiết tại nơi làm việc hoặc trong giờ làm việc mà Bộ luật lao động và nội quy của cơ sở sản xuất, kinh doanh cho phép, bao gồm nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, làm vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh;

    b) Ngoài nơi làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động hoặc người được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động;

    c) Trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý;

    2. Suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bị tai nạn quy định tại khoản 1 Điều này;

    3. Người lao động không được hưởng chế độ do Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp chi trả nếu thuộc một trong các nguyên nhân quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này.”

    Tùy thuộc vào mức suy giảm khả năng lao động mà người lao động sẽ được hưởng trợ cấp tai nạn lao động một lần hoặc trợ cấp tai nạn lao động hàng tháng theo quy định trong Luật an toàn lao động 2015 như sau:

    “ Điều 48. Trợ cấp một lần

    1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30% thì được hưởng trợ cấp một lần.

    2. Mức trợ cấp một lần được quy định như sau:

    a) Suy giảm 5% khả năng lao động thì được hưởng năm lần mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 0,5 lần mức lương cơ sở;

    b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, còn được hưởng thêm khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, từ một năm trở xuống thì được tính bằng 0,5 tháng, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3 tháng tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động hoặc được xác định mắc bệnh nghề nghiệp; trường hợp bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.

     

    ..."

     

    “ Điều 49. Trợ cấp hằng tháng

    1. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên thì được hưởng trợ cấp hằng tháng.

    2. Mức trợ cấp hằng tháng được quy định như sau:

    a) Suy giảm 31% khả năng lao động thì được hưởng bằng 30% mức lương cơ sở, sau đó cứ suy giảm thêm 1% thì được hưởng thêm 2% mức lương cơ sở;

    b) Ngoài mức trợ cấp quy định tại điểm a khoản này, hằng tháng còn được hưởng thêm một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng vào Quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, từ một năm trở xuống được tính bằng 0,5%, sau đó cứ thêm mỗi năm đóng vào quỹ được tính thêm 0,3% mức tiền lương đóng vào quỹ của tháng liền kề trước tháng bị tai nạn lao động hoặc được xác định mắc bệnh nghề nghiệp; trường hợp bị tai nạn lao động ngay trong tháng đầu tham gia đóng vào quỹ hoặc có thời gian tham gia gián đoạn sau đó trở lại làm việc thì tiền lương làm căn cứ tính khoản trợ cấp này là tiền lương của chính tháng đó.”

    Người lao động được giám định mức suy giảm khả năng lao động theo quy định trong luật an toàn lao động 2015 cụ thể như sau:

    “Điều 47. Giám định mức suy giảm khả năng lao động

    1. Người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp được giám định hoặc giám định lại mức suy giảm khả năng lao động khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Sau khi bị thương tật, bệnh tật lần đầu đã được điều trị ổn định còn di chứng ảnh hưởng tới sức khỏe;

    b) Sau khi thương tật, bệnh tật tái phát đã được điều trị ổn định;

    c) Đối với trường hợp thương tật hoặc bệnh nghề nghiệp không có khả năng điều trị ổn định theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế thì người lao động được làm thủ tục giám định trước hoặc ngay trong quy trình điều trị.

    .....”

  • Xem thêm     

    13/05/2020, 07:35:52 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ khoản 3 Điều 126 Bộ luật lao động năm 2012 thì người lao động tự ý nghỉ việc bị áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải nếu:

    “3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.

    Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.”

    Đồng thời căn cứ hướng dẫn cụ thể Điều này tại Điều 31 Nghị định 05/2015/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số nội dung của Bộ luật lao động năm 2012 thì:

    “1. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày làm việc cộng dồn trong phạm vi 30 ngày kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc hoặc 20 ngày làm việc cộng đồn trong phạm vi 365 ngày kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

    2. Người lao động nghỉ việc có lý do chính đáng trong các trường hợp sau:

    a) Do thiên tai, hỏa hoạn;

    b) Bản thân, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố vợ, mẹ vợ, bố chồng, mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi hợp pháp bị ốm có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;

    c) Các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.”

    Như vậy, đối với trường hợp của đơn vị bạn do người lao động nghỉ việc không có lý do từ ngày 6/4 đến nay đã đủ căn cứ để kỉ luật sa thải khi:

    - Người lao động tự ý nghỉ việc 5 ngày trong phạm vi 30 ngày kể từ ngày nghỉ đầu tiên, hoặc 20 ngày trong phạm vi 365 ngày kể từ ngày nghỉ đầu tiên.

    - Không có lý do chính đáng: theo quy định tại Khoản 2 Điều 31 Nghị định 05/2015/NĐ-CP và theo quy định của nội quy lao động.

    Trong trường hợp này, đơn vị bạn có thể áp dụng hình thức kỷ luật sa thải theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    13/05/2020, 07:24:10 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo quy định tại Điều 31 Luật BHXH: Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ mang thai;

    b) Lao động nữ sinh con;

    c) Lao động nữ mang thai hộa và người mẹ nhờ mang thai hộ;

    d) Người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi;

    đ) Lao động nữ đặt vòng tránh thai, người lao động thực hiện biện pháp triệt sản;

    e) Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.

    Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

    Người lao động quy định tại điểm b khoản 1 Điều này đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 03 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con

    Theo Điều 39 Luật Bảo hiểm xã hội 2014, mức hưởng chế độ thai sản một tháng bằng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản.

    Theo đó, mỗi tháng nghỉ bạn là lao động nữ sinh con được hưởng 100% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội của 06 tháng trước khi nghỉ sinh.

  • Xem thêm     

    03/05/2020, 09:54:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 có quy định về xử lý vật chứng như sau:

    “Điều 106. Xử lý vật chứng

    1, Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Chánh án Tòa án quyết định nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn chuẩn bị xét xử; do Hội đồng xét xử quyết định nếu vụ án đã đưa ra xét xử. Việc thi hành quyết định về xử lý vật chứng phải được ghi vào biên bản.

    2, Vật chứng được xử lý như sau:

    a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm tàng trữ, lưu hành thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy;

    b) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có thì bị tịch thu, nộp ngân sách nhà nước;

    c) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng được thì bị tịch thu và tiêu hủy.

    3, Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan, người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền:

    a) Trả lại ngay tài sản đã thu giữ, tạm giữ nhưng không phải là vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp tài sản đó;

    b) Trả lại ngay vật chứng cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án;

    c) Vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật; trường hợp không bán được thì tiêu hủy;

    d) Vật chứng là động vật hoang dã và thực vật ngoại lai thì ngay sau khi có kết luận giám định phải giao cho cơ quan quản lý chuyên ngành có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

    4, Trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu đối với vật chứng thì giải quyết theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.”

    Theo quy định trên, nếu chiếc xe của bạn là vật chứng của vụ án này, thì cơ quan điều tra sẽ tạm giữ vật chứng để phục vụ cho hoạt động điều tra. Thời gian tạm giữ xe để điều tra phụ thuộc vào thời gian điều tra của từng vụ án cụ thể. Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 quy định tại Điều 172 như sau:

    Điều 172. Thời hạn điều tra

    1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

    2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.

    Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

    a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;

    b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;

    c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;

    d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

    Theo đó, nếu xe của bạn được giữ để phục vụ điều tra vụ án, thì sau khi kết thúc thời hạn điều tra hoặc không cần thiết giữ phương tiện để điều tra thêm thì cơ quan công an sẽ trả lại xe cho bạn. Còn trong trường hợp nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án thì vật chứng là chiếc xe sẽ được lập tức trả lại cho bạn.

    Về vấn đề bạn muốn nhận lại chiếc xe thì có thể liên hệ trực tiếp với cơ quan công an và làm đơn yêu cầu cơ quan công an hỗ trợ giải quyết trả lại x echo bạn. Vì chiếc xe này phần lớn không ảnh hưởng nhiều đến tình tiết của vụ án, đồng thời cần thiết cho sinh hoạt của bạn nên cơ quan điều tra có thể xem xét trả lại cho bạn trong thời gian sớm nhất.

  • Xem thêm     

    03/05/2020, 09:08:53 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đối với trường hợp bạn hỏi khi bạn không phải là người đứng tên trên Quyết định thôi việc mà là con của người đứng tên trên quyết định thì có thể bạn là người đại diện theo ủy quyền của mẹ bạn thì bạn có thể nhận ủy quyền bằng văn bản có công chứng chứng thực từ mẹ bạn

    Khi có Văn bản ủy quyền, CMND, Đơn xin trích lục, bạn có thể liên hệ tới cơ quan đơn vị (Phòng giáo dục quận, huyện) nơi đang trực tiếp thực hiện việc quản lý hồ sơ gốc của mẹ bạn thì sẽ căn cứ vào thông tin trong sổ gốc đó để cấp trích lục bản sao cho mẹ bạn.

  • Xem thêm     

    03/05/2020, 09:57:07 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Quyết định thôi việc là một trong các văn bản của cơ quan đơn vị nhà nước. Văn bản này chỉ được cấp một lần cho bạn, trừ trường hợp Quyết định đó bị viết sai do lỗi của cơ quan cấp. Do đó khi bị mất, bạn có thể làm thủ tục để được cấp trích lục bản sao từ sổ gốc.

    Theo đó, bạn tới cơ quan đơn vị đang quản lý hồ sơ gốc trước đây để làm thủ tục cấp trích lục bản sao Quyết định thôi việc.

    Khi bạn có yêu cầu, nguyện vọng muốn cấp bản sao Quyết định thôi việc được lưu lại trong hồ sơ gốc cần nêu rõ đó là xuất trình đầy đủ chứng minh thư nhân dân hoặc bản pho tô chứng minh thư nhân dân, căn cước công dân hoặc hộ chiếu còn giá trị sử dụng đưa cho người trực tiếp tiếp nhận hồ sơ để họ kiểm tra về các thông tin trên một trong các loại giấy tờ trên là còn giá trị sử dụng.

    Sau khi nhận được yêu cầu cấp bản sao văn bằng đại học thì cơ quan, đơn vị mà đang trực tiếp thực hiện việc quản lý hồ sơ đối với hồ sơ cán bộ thì sẽ căn cứ vào thông tin trong hồ sơ gốc gốc đó để cấp bản sao cho người có yêu cầu. Trong trường hợp xấu nếu tìm trong sổ gốc mà sổ gốc không có thông tin về nội dung đối với người học hoặc không còn lưu trữ được bản gốc thì cơ quan, đơn vị lưu hồ sơ trước đây sẽ thực hiện trách nhiệm đối với việc trả lời cho người có yêu cầu bằng văn bản về nội dung của người yêu cầu đang yêu cầu.

  • Xem thêm     

    30/04/2020, 09:36:19 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp người sử dụng lao động không được đơn phương chấm dứt hợp đồng với người lao động được quy định tại khoản 3 Điều 39 Bộ luật Lao động năm 2012 trong đó có: “Lao động nữ quy định tại khoản 3 Điều 155 của Bộ luật này.”

    Tại khoản 3 và khoản 4 Điều 155 quy định bảo vệ thai sản đối với lao động nữ quy định:

    “3. Người sử dụng lao động không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì lý do kết hôn, mang thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, trừ trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân chết, bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, mất tích hoặc là đã chết hoặc người sử dụng lao động không phải là cá nhân chấm dứt hoạt động.

    4. Trong thời gian mang thai, nghỉ hưởng chế độ khi sinh con theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ không bị xử lý kỷ luật lao động”.

    Như vậy, trong thời gian bạn đang mang thai mà công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối bạn vì lý do giam là vi phạm quy định của pháp luật và trái pháp luật. Khi bạn thấy mình bị công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì bạn có thể khiếu nại Công ty để họ nhận bạn trở lại làm việc.

    Nếu trong trường hợp công ty vẫn không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng thì bạn có thể khiếu nại, khởi kiện để đòi lại quyền lợi cho mình.

    Theo khoản 1 Điều 7 Nghị định 24/2018/NĐ-CP, trong vòng 180 ngày kể từ ngày biết được quyền lợi của mình bị xâm phạm, người lao động gửi đơn khiếu nại lần đầu tới người sử dụng lao động. Nếu cách này vẫn không giải quyết được thì khiếu nại lần hai tới Chánh Thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội, nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.

    Việc làm này nhằm mục đích thông báo cho cơ quan quản lý biết về vụ việc, từ đó sẽ có tác động tới quyết định của người sử dụng lao động. Trường hợp người sử dụng lao động có hành vi sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với lao động nữ vì lý do kết hôn, có thai, nghỉ thai sản, nuôi con dưới 12 tháng tuổi thì sẽ bị phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng (theo khoản 2 Điều 18 Nghị định 95/2013/NĐ-CP).

    Song song với đó, bạn hoàn toàn có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân cấp huyện nơi doanh nghiệp có trụ sở. Trường hợp này pháp luật cho phép không nhất thiết phải hòa giải tại cơ sở để giải quyết tranh chấp.

    Trong trường hợp bạn được chấp nhận trở lại làm việc thì Công ty sẽ phải có trách nhiệm nhận bạn vào làm việc trở lại và bồi thường ít nhất 02 tháng lương; nếu bạn không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền bồi thường còn được trả trợ cấp thôi việc; nếu công ty không muốn nhận bạn vào làm việc và bạn cũng không muốn làm việc tại công ty nữa thì ngoài khoản tiền bồi thường và trợ cấp thôi việc như đã nêu trên, công ty còn phải bồi thường thêm cho bạn ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

  • Xem thêm     

    29/04/2020, 06:11:15 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo khoản 2 và khoản 3 Điều 47 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động:

     2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày.

    Như vậy, khi bạn bị công ty sa thải bạn vẫn có quyền được thanh toán tiền lương cho những ngày đã làm việc tại công ty. Công ty có trách nhiệm trả lương cho bạn đầy đủ và đúng hạn.

  • Xem thêm     

    29/04/2020, 09:41:01 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 328 Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015: “Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.

    Như vậy, theo quy định trên, trong trường hợp hợp đồng dân sự không được giao kết, thực hiện thì tùy từng trường hợp cụ thể, tài sản đặt cọc được giải quyết như sau: Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    Theo thông tin bạn cung cấp, các bạn có làm hợp đồng dịch vụ ký một hợp đồng đi du lịch cùng một công ty tổng giá trị 27.000.000. Đoàn bạn có uỷ thác cho trưởng đoàn đến công ty du lịch ký và đặt cọc 17.000.000. Đến 13/3, đoàn bạn muốn huỷ dịch vụ, không đi nữa. Sau khi gọi lên công ty du lịch, công ty báo nếu huỷ sẽ mất 17.000.000 và khuyên nên rời ngày đi. Trong đoàn thống nhất là huỷ không đi nữa. Bên công ty du lịch báo  chỉ trả được 5.000.000 sau khi làm việc với nhà hàng khách sạn. Đoàn bạn có nhờ người uỷ thác sang công ty du lịch, nhưng không nhận được thông báo từ người uỷ thác. Ngày 23/3, đoàn du lịch thống nhất không đến điểm hẹn để xe đón đi du lịch. Ngày 4/4, bạn gọi cho nhân viên công ty du lịch để hỏi về tiền cọc. Nhân viên báo không thấy ai đến để thanh lý và dịch vụ của các bạn bị huỷ, công ty du lịch bị phạt 30% tiền đặt cọc với đối tác và không được nhận lại bất kỳ khoản tiền nào.

    Theo thỏa thuận thì các bạn được nhận lại số tiền 5 triệu đồng. Căn cứ quy định trên, khi bên phải thực hiện nghĩa vụ nếu không thực hiện được hoặc chậm thực hiện phải thông báo ngay cho bên có quyền về việc không thực hiện nghĩa vụ đúng thời hạn, đồng thời áp dụng các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng để hoàn trả tiền hoặc bồi thường.

    Việc công ty du lịch không trả lại tiền cho bạn, trước hết bạn liên hệ với Công ty đó để yêu cầu xác định chính xác thời gian và địa điểm trả tiền. Nếu không hợp tác, bạn có thể khởi kiện ra Tòa án dân sự về việc không trả lại số tiền đó.

  • Xem thêm     

    27/04/2020, 02:23:26 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Nghị quyết 42/NQ-CP về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 quy định NLĐ bị chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp; NLĐ không có giao kết HĐLĐ bị mất việc làm được hỗ trợ 1 triệu đồng/người/tháng. Thời gian hỗ trợ tùy theo tình hình thực tế của diễn biến dịch nhưng tối đa không quá 3 tháng. Thời gian áp dụng từ tháng 4 đến 6.

    Phạm vi thực hiện chính sách hỗ trợ tại các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, hộ kinh doanh, cá nhân đăng ký kinh doanh đóng trụ sở chính trên địa bàn tỉnh, thành phố , có thuê mướn lao động theo hợp đồng, gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh do dịch Covid-19.

    Như vậy, Dì bạn đang làm tạp vụ ở trường mẫu giáo tư nhân, không có hợp đồng lao động bị mất việc làm thuộc trường hợp được hưởng chế độ trợ cấp của Chính phủ với mức 1 triệu đồng/tháng. Trường hợp của dì bạn được đăng ký trợ cấp tại nhà trường vì thuộc đối tượng nêu trên nên cần có đơn đề nghị được hỗ trợ trong thời gian đang tạm ngưng việc hoặc nghỉ không hưởng lương. Đơn gửi đến người sử dụng lao động (hiệu trưởng trường)

    Người sử dụng lao động (nhà trường) có trách nhiệm lập bảng tổng hợp danh sách thuộc diện được hưởng hỗ trợ, công khai danh sách tại đơn vị, doanh nghiệp. Sau đó đề nghị tổ chức công đoàn cơ sở (nếu có) và cơ quan BHXH xác nhận.

    Tùy theo tình hình diễn biến thực tế của dịch Covid-19 và thời hạn thỏa thuận tạm hoãn thực hiện HĐLĐ hoặc nghỉ việc không hưởng lương, người sử dụng lao động lập danh sách đề nghị hỗ trợ.

    Trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, UBND quận, huyện thẩm định, quyết định và chuyển đủ kinh phí hỗ trợ cho người lao động theo đúng danh sách đã được phê duyệt và trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do với những trường hợp không được hỗ trợ.

  • Xem thêm     

    27/04/2020, 10:05:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Vấn đề bạn hỏi cũng chưa chắc chắn phải khởi tố vì khởi tố hay không phải phụ thuộc vào công tác điều tra xác minh của Cơ quan điều tra bạn nhé.

  • Xem thêm     

    27/04/2020, 09:53:13 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định Điều 48 Bộ luật lao động 2012 về trợ cấp thôi việc:

    “1.  Khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương.

    2. Thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc là tổng thời gian người lao động đã làm việc thực tế cho người sử dụng lao động trừ đi thời gian người lao động đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội và thời gian làm việc đã được người sử dụng lao động chi trả trợ cấp thôi việc.

    3. Tiền lương để tính trợ cấp thôi việc là tiền lương bình quân theo hợp đồng lao động của 06 tháng liền kề trước khi người lao động thôi việc.”

    Người lao động đã làm việc cho người sử dụng lao động thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 37 của Bộ luật Lao động được hưởng trợ cấp thôi việc

    Như vậy, đối chiếu với trường hợp của bạn thì việc chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động và người sử dụng lao động (khoản 9 Điều 36 và Khoản 1 Điều 37) - tức báo trước cho Công ty bạn 45 ngày làm việc trước khi nghỉ việc (hợp đồng không xác định thời hạn) hoặc 30 ngày làm việc nếu một trong các trường hợp quy định tại Điều 37 Bộ luật lao động và làm việc thường xuyên cho đơn vị từ 12 tháng trở lên thì đều đủ điều kiện được hưởng trợ cấp thôi việc (nhưng việc hưởng trợ cấp này phải trừ đi thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp - kể từ thời điểm tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp thì sẽ không được thanh toán trợ cấp thôi việc nữa).

    Dù pháp luật không quy định về hình thức thông báo nhưng để bảo đảm việc chấm dứt hợp đồng lao động của bạn là đúng quy định pháp luật, bạn nên gửi thông báo bằng văn bản. Trong đó, ghi rõ nội dung đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, thời điểm sẽ chính thức nghỉ việc và yêu cầu người hoặc phòng/ban có thẩm quyền phụ trách xác nhận việc nhận thông báo của bạn.

    Khi chấm dứt hợp đồng lao động, bao gồm cả trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như trường hợp của bạn, người sử dụng lao động cũng phải hoàn thành thủ tục xác nhận và trả lại sổ bảo hiểm xã hội cho bạn. Ngoài ra trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người sử dụng lao động và người lao động có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên(trong đó có trợ cấp thôi việc của bạn). Trường hợp đặc biệt, thời hạn thanh toán có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, thuộc một trong các trường hợp sau: Nếu công ty không không thực hiện nghĩa vụ trên cho bạn thì công ty đã vi phạm pháp luật và có thể bị xử phạt hành chính.

    Trong trường hợp đặc biệt, nếu bạn có đầy đủ bằng chứng chứng minh phía doanh nghiệp thiếu trách nhiệm, cố tình chậm trễ việc trả sổ, chốt sổ bảo hiểm xã hội, thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bạn thì bạn có thể làm đơn khởi kiện đến tòa án.

  • Xem thêm     

    24/04/2020, 04:34:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo  quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 có quy định về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:

    - Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    - Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    - Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.

    Như vậy, luật có nêu rõ chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    Còn đối với trường hợp của bạn thìnhững người thợ thi công và bạn (nếu đồng phạm) có thể sẽ bị truy tố tội vi phạm quy định về Phòng cháy chữa cháy theo Điều 313 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 không nằm trong các tội phạm theo điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự nêu trên. Do đó dù đã thỏa thuận mức bồi thường, dù không có yêu cầu của người bị hại thì cơ quan có thẩm quyền vẫn có quyền khởi tố những người thợ thi công, bạn(nếu có) ra Tòa vì tính chất nguy hiểm gây thiệt hại cho bị hại khá nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc thỏa thuận mức bồi thường sẽ là tình tiết giảm nhẹ mức hình phạt cho những ngời bị khởi tố, truy tố ra Tòa án.

  • Xem thêm     

    24/04/2020, 01:07:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đã được trả lời rồi

  • Xem thêm     

    24/04/2020, 01:06:16 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn nêu tôi tư vấn như sau:

    Phương án sử dụng lao động được quy định tại Điều 46 Bộ luật Lao động nhằm giải quyết vấn đề lao động liên quan đến các trường hợp người sử dụng lao động cho nhiều người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ, vì lý do kinh tế được quy định tại Điều 44 Bộ luật Lao động.

    Khi xây dựng phương án sử dụng lao động phải tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở (trường hợp đơn vị sử dụng lao động đã có tổ chức công đoàn cơ sở thì tham khảo ý kiến của ban chấp hành công đoàn cơ sở; trường hợp đơn vị sử dụng lao động chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở thì phải tham khảo ý kiến của tổ chức công đoàn cấp trên trực tiếp của công đoàn cơ sở).

    Theo thông tin bạn cung cấp, Công ty bạn đã “Xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động không có sự tham gia của Công đoàn cơ sở” chỉ thông báo và có biên bản cuộc họp lấy ý kiến của công đoàn và lấy chữ ký của chủ tịch công đoàn là đã đủ điều kiện theo quy định.

    Do đó, Công ty chấm dứt hợp đồng lao động theo điều khoản như trên phải đáp ứng điều kiện thông báo trước 30 ngày làm việc đối với loại hợp đồng xác định thời hạn hoặc 45 ngày làm việc đối với loại hợp đồng không xác định thời hạn. Việc Công ty thông báo chấm dứt hợp đồng lao động với thời hạnnhư bạn nêu là không đúng với quy định.

    Pháp luật không quy định về việc thông báo nghỉ việc phải được lập thành văn bản mới hợp lệ và cũng không quy định rõ về hình thức thông báo nghỉ việc nên việc bạn thông báo bằng email vẫn được coi là hợp lệ.

    Tuy nhiên, để có thể chấm dứt hợp đồng với bạn trước thời hạn trong trường hợp này Công ty phải chứng minh được mình chấm dứt hợp đồng thực sự là vì lý do kinh tế hoặc vì tình hình tài chính của công ty không cho phép và công ty không thể bố trí, sắp xếp được công việc cho bạn.

    Theo Khoản 2 Điều 13 Nghị định 05/2015/NĐ-CP quy định lý do kinh tế như sau:

    “a) Khủng hoảng hoặc suy thoái kinh tế;

    b) Thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế hoặc thực hiện cam kết quốc tế.”

    Nếu công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bạn với lý do kinh tế thì phải thuộc một trong bốn trường hợp: Khủng hỏang kinh tế; Suy thoái kinh tế; Thực hiện chính sách của Nhà nước khi tái cơ cấu nền kinh tế; Thực hiện cam kết quốc tế.

    Công ty gửi thông báo sẽ chấm dứt hợp đồng lao động với bạn mà không chứng minh được mình chấm dứt hợp đồng thực sự là vì lý do kinh tế hoặc vì tình hình tài chính của công ty hoặc vi phạm thời hạn thông báo là chưa đúng theo quy định pháp luật. Do đó, bạn có thể trao đổi lại với phía bên công ty về vấn đề này. Nếu phía công ty vẫn chấm dứt hợp đồng lao động với bạn với lý do trên thì công ty sẽ thuộc trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng trái luật.

    Nếu Công ty vẫn cố tình chấm dứt Hợp đồng lao động với bạn mà bạn đã nêu là hành vi trái pháp luật. Bạn có thể gửi đơn đến Phòng lao động thương binh xã hội, Liên đoàn lao động cấp huyện nơi Công ty đóng trụ sở nhờ can thiệp hoặc khởi kiện Công ty ra tòa án để được bảo đảm quyền lợi.

  • Xem thêm     

    23/04/2020, 10:54:53 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điểm b, khoản 1, Điều 38 Bộ luật Lao động 2012 quy định: Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động khi người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm theo Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; đã điều trị 6 tháng liên tục, đối với người lao động làm theo Hợp đồng lao động xác định thời hạn và quá nửa thời hạn Hợp đồng lao động đối với người làm theo Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục.

    Khi sức khỏe của người lao động bình phục, thì người lao động được xem xét để tiếp tục giao kết Hợp đồng lao động. Khoản 2, Điều 38 Bộ luật Lao động quy định: Khi đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động, Người sử dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước: a) Ít nhất 45 ngày đối với Hợp đồng lao động không xác định thời hạn; b) Ít nhất 30 ngày đối với Hợp đồng lao động xác định thời hạn; c) Ít nhất 3 ngày làm việc đối với trường hợp quy định tại điểm b, khoản 1 điều này và đối với Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn dưới 12 tháng.

    Điều 39 Bộ luật Lao động quy định về trường hợp Người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động: 1. Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo quyết định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1, Điều 38 của Bộ luật Lao động. 2. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và những trường hợp nghỉ khác được Người sử dụng lao động đồng ý.

    Do đó, việc Công ty chấm dứt Hợp đồng lao động với bạn khi đang nghỉ để điều trị bệnh và đã được đồng ý của bệnh viện mà Công ty đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trước nửa tháng là hành vi trái pháp luật. Bạn có thể gửi đơn đến Phòng lao động thương binh xã hội, Liên đoàn lao động cấp huyện nơi Công ty đóng trụ sở nhờ can thiệp hoặc khởi kiện Công ty ra tòa án để được bảo đảm quyền lợi.

    Trong trường hợp của bạn nếu không tiếp tục gia hạn hợp đồng mà Công ty chấm dứt trước thời hạn Theo quy định tại Khoản 1 Điều 36 Bộ luật lao động thì một trong những căn cứ để chấm dứt hợp đồng lao động là khi hết hạn hơp đồng lao động, trừ trường hợp người lao động là cán bộ công đoàn không chuyên trách đang trong nhiệm kỳ công đoàn mà hết hạn hợp đồng lao động thì được gia hạn hợp đồng lao động đã giao kết đến hết nhiệm kỳ.

    Nếu Công ty đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật thì công ty bồi thường cho bạn với mức được quy định tại Điều 42 Bộ luật lao động 2012 như sau:

    – Phải trả tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trong những ngày mà bạn không được làm việc.

    – Bồi thường ít nhất 02 tháng tiền lương theo HĐLĐ (lương theo HĐLĐ bao gồm lương cơ bản và các khoản phụ cấp khác).

    – Chi trả trợ cấp thôi việc

  • Xem thêm     

    23/04/2020, 04:51:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn mua phải chiếc xe nhập lậu kèm theo giấy tờ xe giả. Khi bạn mua phải xe nhập lậu đã được làm giả giấy tờ xe giả trên sẽ có 02 trường hợp xảy ra:

    * Trường hợp 1: Biết là xe nhập lậu, giấy tờ được làm giả

    Bạn mua xe trong trường hợp này đã chiếm hữu không ngay tình. Cho nên, khi bị phát hiện đang sử dụng xe nhập lậu và giấy tờ giả sẽ bị tịch thu xe. Ngoài ra, còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015 về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có như sau:

    “1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng;

    d) Thu lợi bất chính từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 10 năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;

    b) Thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên;

    b) Thu lợi bất chính 300.000.000 đồng trở lên.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    * Trường hợp 2: Không biết là xe nhập lậu, giấy tờ được làm giả

    Để nhận biết được xe nhập lậu và dùng giấy tờ giả không phải là kiến thức thông thường mà cần có những hiểu biết, trình độ nhất định. Cho nên, việc họ không biết được mình đã mua phải xe nhập lậu, giấy tờ giả là chuyện bình thường.

    Trong trường hợp này, người mua đã chiếm hữu ngay tình đối với xe ô tô trên. Khi bị cơ quan chức năng phát hiện ra, người mua vẫn sẽ bị tịch thu xe.

    * Bảo vệ quyền lợi của người mua trong trường hợp họ chiếm hữu ngay tình thì tại

    Bộ luật Dân sự 2015 quy định về giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

    Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép

    Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình.

    Điều 131. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

    Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

    3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

    4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định.

    Điều 133. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng đối tượng của giao dịch là tài sản không phải đăng ký đã được chuyển giao cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch được xác lập, thực hiện với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 167 của Bộ luật này.

    2. Trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.

    Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.

    3. Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ người thứ ba ngay tình, nếu giao dịch dân sự với người này không bị vô hiệu theo quy định tại khoản 2 Điều này nhưng có quyền khởi kiện, yêu cầu chủ thể có lỗi dẫn đến việc giao dịch được xác lập với người thứ ba phải hoàn trả những chi phí hợp lý và bồi thường thiệt hại”.

    Khi người mua đưa ra được đầy đủ và chính xác những chứng cứ chứng minh về việc chiếm hữu xe ngay tình của mình thì giao dịch mua bán xe trên chính là giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối.

    Lúc này, hai bên trong giao dịch mua bán xe trên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Tuy nhiên, xe nhập lậu trên đã bị cơ quan chức năng thu hồi cho nên bên bán trong giao dịch trên sẽ hoàn trả lại tiền cho bên mua. Đồng thời, bên bán còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có hoặc tội hợp pháp hoá tiền, tài sản do phạm tội mà có theo quy định tại Bộ luật Hình sự.

  • Xem thêm     

    21/04/2020, 04:39:13 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 10 Thông tư 15/2012/TT-BNV ngày 25/12/2012 của Bộ Nội vụ hướng dẫn về tuyển dụng, ký kết hợp đồng làm việc và đền bù chi phí đào tạo, bồi dưỡng đối với viên chức (tình trạng còn hiệu lực) thì, người trúng tuyển viên chức được miễn thực hiện chế độ tập sự khi có đủ các điều kiện sau: Đã có thời gian công tác có đóng BHXH bắt buộc trong ngành, lĩnh vực cần tuyển từ đủ 12 tháng trở lên; Trong thời gian công tác có đóng BHXH bắt buộc trong ngành, lĩnh vực cần tuyển từ đủ 12 tháng trở lên đã làm những công việc chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng.

    Thời gian công tác có đóng BHXH bắt buộc của người được tuyển dụng đã làm những công việc chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng (nếu có) tính vào thời gian xét nâng lương lần sau khi bổ nhiệm và xếp lương vào chức danh nghề nghiệp.

    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn vào làm một cơ quan hành chính sự nghiệp, đóng BHXH từ 2015 đến nay và không qua tập sự vì làm theo chế độ Hợp đồng lao động từ 2015 – 2017 làm ở vị trí văn phòng (chuyên viên) và từ 2017 đến nay: làm ở vị trí kỹ sư. Thời gian làm việc bạn có đóng BHXH liên tục từ 2015 đến nay. Nay cơ quan bạn tuyển dụng vào làm vị trí kỹ sư đúng với vị trí bạn làm việc từ 2017.

    Nhận thấy, trước khi được tuyển dụng làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập, bạn đã có thời gian 24 tháng làm việc, hưởng lương, đóng BHXH với mức tiền lương bậc 2/9 hệ số 2,67 và đã có thời gian 3 năm làm những công việc chuyên môn nghiệp vụ phù hợp với yêu cầu của vị trí việc làm được tuyển dụng tại đơn vị sự nghiệp công lập hiện nay.

    Áp dụng Điều 10 Thông tư số 15/2012/TT-BNV, trường hợp bà bạng được miễn tập sự. Do được miễn tập sự và có trình độ nên bạn được bổ nhiệm vào chức danh, xếp hưởng 100% tiền lương bậc 2/9, hệ số 2,67 mới đúng.

  • Xem thêm     

    19/04/2020, 03:46:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn bị một đối tượng đâm thủng bụng phải đi cấp cứu, đối tượng kia có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

    Theo Điều 155 tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 thì hành vi đánh người gây thương tích tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 sẽ bị khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại, là những người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết .

    Người bị hại hoặc người đại diện sẽ tự mình viết đơn nhân danh người bị hại tố cáo và yêu cầu khởi tố hình sự đối với hành vi đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe… đến cơ quan cảnh sát điều tra cấp quận, huyện để thụ lý điều tra.

    Theo đó, nếu bạn bị đối tượng đâm thủng bụng thì bạn hoàn toàn có quyền tố cáo hành vi trên với cơ quan công an có thẩm quyền can thiệp. Theo đó, bạn có thể thu thập các chứng cứ từ những người làm chứng, từ hàng xóm, gia đình xung quanh, từ người chứng kiến… Nếu như đơn tố cáo có nội dung đúng sự thật, đủ căn cứ chứng minh thì cơ quan công an sẽ can thiệp điều tra, làm rõ vụ việc.

    Bạn đã làm đơn trình báo công an khu vực nhưng chưa được gọi để giải quyết, có thể vụ việc của bạn vẫn đang trong thời hạn thực hiện việc kiểm tra, xác minh của cơ quan công an có thẩm quyền. Nếu hết thời hạn trong khoảng thời gian từ 20 ngày hoặc có thể đến 60 ngày mà bạn không nhận được quyết định gì của cơ quan điều tra bạn có thể gửi đơn thư yêu cầu tới cơ quan điều tra có thẩm quyền, viện kiểm sát cùng cấp và cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp để yêu cầu giải quyết vụ việc theo đúng quy định của pháp luật.

    Thông thường việc nhận đơn phải có xác nhận về việc đã nhận đơn (ghi sổ, giấy xác nhận ...). Bạn có thể trực tiếp yêu cầu cơ quan công an nơi bạn trình báo xác nhận về việc đã nhận đơn trình báo của bạn bằng văn bản hoặc bạn gửi đơn trình báo qua đường bưu điện (giữ lại biên lai ghi nhận việc gửi đơn) làm căn cứ cho việc gửi đơn trình báo của bạn để bạn tính thời hạn.

75 Trang «<19202122232425>»