Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 08:50:38 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                Nếu ẩu đả không dùng hung khí và thương tích chưa đến 11 % thì chỉ bị xử phạt hành chính. Ai là người đánh người khác hoặc có lỗi chính trong chuyện đánh nhau thì sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định 73/2010/NĐ-CP ngày 01/9/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 08:24:40 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
              Nếu giấy ủy quyền của mẹ bạn cho bạn chỉ là quản lý, sử dụng thì bạn không đủ điều kiện để được cấp GCN QSD đất. Nếu bạn có giấy tờ mua bán, chuyển nhượng từ mẹ bạn sang bạn thì mới có thể được cấp GCN QSD đất theo quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai.

             Quá trình sử dụng đất từ năm 1992 tới nay không phải là căn cứ để công nhận quyền sử dụng đất cho bạn. Nếu mẹ bạn đủ điều kiện được sở hữu nhà ở theo quy định tại Điều 126 Luật nhà ở hoặc điều 121 Luật đất đai thì có thể xin cấp GCN QSD đất đứng tên mẹ bạn, sau đó sang tên cho bạn.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 08:00:06 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Đó cũng là một lập luận, biện minh cho hành động của Hiệu trưởng. Thông thường những vụ việc như vậy thì công an và viện kiểm sát sẽ không muốn khởi tố (dù giá trị tài sản thiệt hại có trên 4 triệu đồng).

              Vụ việc trên chỉ khiển trách, nhắc nhở là có tình, có lý. Nếu hậu quả nghiêm trọng thì cùng lắm là kỷ luật đảng và xử phạt hành chính cũng đủ răn đe, phòng ngừa, giáo dục thày Hiệu trưởng, không nhất thiết phải đối mặt với án tù đày trong tình huống này...

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 07:50:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

             Trường hợp của gia đình bạn là "tự nguyện hiến đất, tặng đất cho Nhà nước" để làm được giao thông nông thôn chứ không phải trường hợp thu hồi đất theo quy định tại Điều 38 Luật đất đai nên gia đình bạn sẽ không được bồi thường như các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế, xã hội, lợi ích quốc gia.  

           Trường hợp của gia đình bạn là tự nguyện hiến, tặng, bàn giao đất cho Nhà nước chứ không phải là Nhà nước thu hồi đất nên các quy định pháp luật về khung giá đất, mức bồi thường, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ không được đặt ra.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 05:46:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

          1. Vụ việc của gia đình bạn trước tiên phải xem lại căn cứ để giao đất, cấp GCN QSD đất của mẹ bạn. Nếu thửa đất đó là đất nông nghiệp và chia lại theo Nghị định 64-CP, khi đó chia cho mẹ bạn thì các cô, chú, bác bạn không có căn cứ để khởi kiện để chia thừa kế.

          2. Nếu thửa đất đó là đất thổ cư (đất ở) của ông bà bạn. Chính quyền địa phương (cấp huyện) không có quyết định thu hồi đất của ông bà bạn để giao lại cho mẹ bạn. Ông bà bạn cũng không có văn bản tặng cho mẹ bạn thửa đất đó thì việc chính quyền địa phương cấp GCN QSD đất cho mẹ bạn không đúng pháp luật. Thửa đất đó vẫn là di sản của ông bà bạn và các chú, bác bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế.

          3. Nếu GCN QSD đất của mẹ bạn được cấp đúng pháp luật thì mẹ bạn có toàn quyền định đoạt thưa đất đó cho các anh, em bạn. Thủ tục tặng cho, chuyển nhượng từ mẹ bạn sang cho anh em bạn không cần phải lấy ý kiến nhân dân, không cần phải công khai... Nếu việc thu hồi 3 GCN QSD đất chưa quá 1 năm thì bạn có thể khởi kiện quyết định thu hồi GCN QSD đất đó thông qua một vụ án hành chính.

           Trong vụ việc của gia đình bạn, vấn đề mấu chốt nhất là căn cứ để cấp GCN QSD đất của mẹ bạn là gì, căn cứ đó có đúng pháp luật không: - Được Nhà nước giao đất hay nhận chuyển quyền sử dụng đất hay được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất?

           Nếu GCN QSD đất của mẹ bạn cấp đúng pháp luật (đúng đối tượng, mẹ bạn đủ điều kiện để được cấp GCN QSD đất đối với thửa đất đó) thì dù vụ việc có đi đến đâu gia đình bạn vẫn thắng kiện. Việc tách sổ từ mẹ bạn sang các anh, em bạn có thể thực hiện lại bất cứ lúc nào.

           Nếu còn nội dung nào chưa rõ thì bạn có thể trình bày và đặt tiếp câu hỏi để được luật sư và các chuyên gia pháp lý trả lời, giải đáp cho bạn.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 09:14:11 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Bạn có thể trình báo sự việc trên với công an để được giải quyết. Nếu công an xác định người nhận tiền của bạn có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn và người đó đã bị xử lý hành chính về hành vi này thì có thể họ sẽ bị xử lý hình sự theo Điều 139 Bộ luật hình sự.

               Nếu người đó chưa bị xử lý hành chính về hành vi đó nhưng có căn cứ xác định người đó lừa đảo (dưới 2 triệu đồng) thì họ sẽ bị xử lý hành chính và buộc phải trả lại tiền cho bạn.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 09:09:49 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Vụ việc của gia đình bạn cần làm rõ các thông tin sau đây:

    - Tại thời điểm chuyển nhượng (năm 2000) thửa đất đó đất đó được cấp GCN QSD đất chưa? Giấy tờ về quyền sử dụng đất đứng tên ai? Thời điểm đó ông nội bạn còn sống không?

    - Thủ tục mua bán thực hiện như thế nào: Có lập hợp đồng bằng văn bản không? Hợp đồng có công chứng, chứng thực không? Người mua đã trả hết tiền chưa? họ đã nhận đất để sử dụng không? Thời gian sử dụng có xây nhà kiên cố, có trồng cây lâu năm không....

                Bạn có thể tham khảo Hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 về cách giải quyết tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất sau đây:

                   "2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

     

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.

    c) Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.1. Khi xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu, thì tuỳ từng trường hợp Toà án áp dụng quy định của điều luật tương ứng từ Điều 136 đến Điều 138, từ Điều 140 đến Điều 145 và Điều 146 của Bộ luật Dân sự để xác định thời hạn yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và xử lý hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.

    c.2. Xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Việc xác định lỗi, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình"

    c.3. Xác định thiệt hại.

    - Khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu thì Toà án cần xác định thiệt hại gồm:

    Khoản tiền mà bên chuyển nhượng phải bỏ ra để khôi phục lại tình trạng ban đầu của diện tích đất do bên nhận chuyển nhượng đã làm huỷ hoại đất; khoản tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã đầu tư để cải tạo làm tăng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị công trình, tài sản, cây lâu năm... trên đất. Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật Dân sự để bảo đảm thực hiện hợp đồng thì thiệt hại còn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.

    - Để xác định đúng các thiệt hại nói trên, Toà án phải tiến hành định giá giá trị quyền sử dụng đất và xác định thiệt hại về đất như sau:

    Nếu các đương sự không thoả thuận được về giá trị quyền sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Toà án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi đất đang tranh chấp đối với từng loại đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    Trong trường hợp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có quy định giá trị quyền sử dụng đất cụ thể phù hợp với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại địa phương hoặc các trung tâm giao dịch bất động sản hoạt động hợp pháp có niêm yết giá giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại địa phương vào thời điểm xét xử sơ thẩm, thì Toà án có thể căn cứ vào giá do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá niêm yết của các trung tâm giao dịch để xác định giá trị quyền sử dụng đất, mà không nhất thiết phải thành lập hội đồng định giá. Trong trường hợp này cần phải có căn cứ xác định giá quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân quy định hoặc giá quyền sử dụng đất do trung tâm giao dịch bất động sản niêm yết là hoàn toàn phù hợp với giá thị trường vào thời điểm xét xử sơ thẩm.

    - Trách nhiệm chịu chi phí cho việc định giá do các đương sự phải chịu chi phí tương ứng với phần nghĩa vụ của họ. Trường hợp đương sự có yêu cầu định giá lại, thì người có yêu cầu phải tạm ứng trước chi phí cho việc định giá lại và Toà án sẽ quyết định ai phải chịu chi phí định giá tuỳ thuộc vào kết quả xét xử"

                  2. Quyền thừa kế: Nếu bà bạn qua đời có di chúc để định đoạt tài sản cho bố bạn thì bố bạn mới được "toàn quyền" sở hữu tài sản của bà bạn. Nếu bà bạn không để lại di chúc thì bố bạn được thừa kế theo pháp luật và chỉ được hưởng một phần di sản bằng với phần được hưởng của các cô, chú khác (các con đều có quyền hưởng thừa kế của cha mẹ không phân biệt con trai hay con gái). Bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005.

  • Xem thêm     

    20/04/2013, 08:47:52 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Hành vi của em bạn có "nên" xử lý hình sự hay không (lấy tài sản của gia đình đi cầm cố) và xử lý về tội gì thì cũng là vấn đề cần xem xét. Với thông tin sơ lược mà bạn nêu thì chưa đủ căn cứ để kết vào tội gì.

            Hành vi của em bạn có thể cấu thành một trong các tội sau đây: Trộm cắp tài sản (nếu việc lấy xe của em bạn là lén lút); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (nếu mượn xe rồi mang đi cầm cố) hay tội sử dụng trái phép tài sản (nếu em bạn còn khả năng lấy lại chiếc xe đó để trả lại gia đình)... Nếu em bạn đang đứng tên chiếc xe đó thì em bạn không phạm tội gì cả.

           Vụ việc của em bạn được giải quyết thế nào còn căn cứ vào lời khai của em bạn và các tình tiết, chứng cứ khác của vụ việc

            Nếu em bạn phạm tội thì với giá trị tài sản như vậy (dưới 50 triệu đồng )sẽ bị xử lý vào khoản 1 của một trong các tội trên và hình phạt từ 3 tháng đến 3 năm tù...

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 10:47:57 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Theo quy định pháp luật thì hợp đồng mua bán tài sản chỉ có hiệu lực pháp luật nếu: Bên bán có quyền bán, bên mua đủ điều kiện mua; Tài sản được phép tham gia giao dịch; Mục đích của việc mua bán là đúng pháp luật; Tuân thủ thủ tục về mua bán..

             Nếu xe gian thì việc mua bán đó không hợp pháp. Bạn có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng vô hiệu để đòi lại số tiền đã trả cho người bán và trả lại họ chiếc xe đó (Điều 137 BLDS).

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 10:43:51 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    - Về tình: Việc chia tài sản (chia thừa kế) của người chia tài sản sẽ căn cứ vào hoàn cảnh và nhu cầu của các con, cháu; căn cứ vào tình cảm của người chia tài sản với những người hưởng tài sản. Quan trọng nhất là cách giải thích "tại sao lại chia như thế?" để thuyết phục mọi người kết quả chia như vậy là có tình, có lý;

    - Về lý: Chủ sở hữu tài sản có toàn quyền định đoạt tài sản, có thể cho bất cứ ai mà không phụ thuộc vào quan hệ huyết thống. Nếu người có tài sản chết, không để lại di chúc thì di sản đó thuộc về: Vợ (chồng), cha, mẹ và các con của họ. Theo quy định pháp luật về thừa kế thì mỗi thừa kế được hưởng một phần bằng nhau.

    Trên cơ sở nguyên tắc như vậy, hi vọng bác sẽ tìm cho mình cách giải quyết có tình, có lý nhất!

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 07:07:22 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Vụ việc bạn nêu chỉ là quan hệ dân sự, không có dấu hiệu tội phạm nên thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Với lãi suất thỏa thuận như vậy là cao hơn mức lãi suất pháp luật quy định nhưng vẫn chưa đủ điều kiện để cấu thành tội cho vay năng lãi nên bạn không sợ bị truy tố.

              Bạn có thể khởi kiện người vay tới Tòa án để được giải quyết tranh chấp hợp đồng vay nợ. Với giấy tờ như vậy là bạn có thể thắng kiện rồi. Còn đối với người bạn đang nợ tiền thì bạn cũng cần thỏa thuận lại để khoanh nợ và chỉ tính nợ gốc thôi...

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 07:00:34 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

             1. Theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai thì trường hợp sử dụng đất ổn định trước ngày 15/10/1993 (ngày luật đất đai năm 1993 có hiệu lực pháp luật), nay phù hợp với quy hoạch và không có tranh chấp thì được cấp GCN QSD đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

              2. Nếu diện tích đất của gia đình bạn chỉ được công nhận đất ở trong hạn mức đất ở do địa phương quy định, phần diện tích đất ngoài hạn mức muốn chuyển thành đất ở thì phải có đơn đề nghị, khi đó mới phải nộp tiền sử dụng đất do chuyển mục đích sử dụng đất. Trường hợp của gia đình bạn có thể được công nhận toàn bộ thửa đất là đất ở. Bạn tham khảo thêm quy định tại Điều 87 Luật đất đai năm 2003.

               Gia đình bạn cần có đơn kiến nghị UBND huyện giải thích về việc nộp tiền "sử dụng đất" của gia đình bạn. Nếu cán bộ UBND huyện giải thích không thỏa đáng thì bạn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định pháp luật. Nếu phải nộp tiền sử dụng đất thì phải có thông báo bằng văn bản (có dấu đỏ) và nơi nộp tiền là Kho bạc Nhà nước chứ không được đưa tay..

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 06:42:38 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    "Bảo lãnh" và "Thế chấp" là một trong các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định tại Điều 318 BLDS. Trong đó thế chấp là bên có nghĩ vụ dùng tài sản của mình để đảm bảo cho khả năng thực hiện nghĩa vụ (trả nợ). Còn bảo lãnh là dùng tài sản của bên thứ ba để bảo đảm cho nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ (người vay) nếu người vay không trả nợ hoặc không còn khả năng trả nợ thì xử lý tài của người bảo lãnh để trừ nợ.Trong số 7 biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự theo quy định của pháp luật hiện hành thì không có biện phám nào là "thế chấp tài sản của bên thứ ba". Theo quy định của pháp luật thì thế chấp chỉ có "hai bên" còn bảo lãnh mới có "bên thứ ba - Bên thế chấp".

    Vậy tại sao thời gian vừa qua, Ngân hàng không sử dụng hợp đồng bảo lãnh mà cứ "đẻ" ra hợp đồng thế chấp tài sản của bên thứ ba (loại giao dịch mà pháp luật không có quy định để thay thế cho một loại giao dịch đã được quy định cụ thể - Bảo lãnh)? Hậu quả của việc mập mờ, không minh bạch trong giao dịch (có thể nói là cố ý làm trái "lừa" của Công chứng viên + cán bộ Ngân hàng và Bên vay tiền) của một thời kỳ khiến ngày nay nhiều người dân phải "ra đường" vì "bút sa, gà chết", không hiểu mình đã ký gì, không hiểu hậu quả pháp lý đến đâu!...

    Theo "luật" thì công chứng viên có nghĩa vụ xác thực giá trị pháp lý của hợp đồng và phải giải thích rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, hậu quả pháp lý của giao dịch. Nhưng thực tế nhiều công chứng viên không những không giải thích hậu quả pháp lý cho chủ sở hữu tài sản mà thường dồn, ép người dân phải ký hợp đồng với câu cửa miệng "cứ ký đi, đây chỉ là thủ tục thôi, công ty vay tiền và công ty trả chứ mình có phải trả tiền đâu mà sợ..."

    "Hợp đồng thế chấp tài sản của Bên thứ ba" là sản phẩm của một thời kỳ mà Ngân hàng + Công chứng + Công ty môi giới bất động sản "hoành hành" và hậu quả là hàng nghìn hộ dân mất nhà ở. Nếu cán bộ ngân hàng và Công chứng viên giải thích rõ cho người "thứ ba" mang tài sản của mình để thế chấp cho người vay tiền và sự khác nhau giữa hợp đồng thế chấp và hợp đồng bảo lãnh thì ít ai giám ký hợp đồng để thế chấp (= bảo lãnh) cho người khác vay tiền (thường là công ty bất động sản)...

    Sự khác nhau cơ bản giữa bảo lành và thế chấp không chỉ ở chỗ người đứng tên đối với tài sản đảm bảo mà còn khác nhau về cách giải quyết hậu quả sau khi ngân hàng thu hồi nợ: Nếu ở hợp đồng thế chấp thì sau khi ngân xử lý tài sản đảm bảo để thu hồi nợ là mọi việc chấm dứt, các giao dịch, các mối quan hệ được giải quyết xong. Tuy nhiên, nếu là hợp đồng bảo lãnh thì sau khi tài sản đảm bảo của bên bảo lãnh bị xử lý thì bên bảo lãnh có quyền yêu cầu (hoặc khởi kiện) bên có nghĩa vụ phải bồi hoàn lại giá trị mà bên bảo lãnh đã bỏ ra để thực hiện thay cho bên vay tiền.

    Do vậy, nếu ai đó dám mang tài sản của mình ra (thường là ô tô hoặc nhà đất) để "đặt cược"(bảo đảm) cho khả năng trả nợ của một tổ chức hoặc cá nhân khác với Ngân hàng thì phải hiểu rõ hậu quả pháp lý của sự bảo đảm đó và hợp đồng nhất thiết phải là hợp đồng bảo lãnh.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự hiện hành:

     

    "Ðiều 318. Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự

    1. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự bao gồm:

    a) Cầm cố tài sản;

    b) Thế chấp tài sản;

    c) Ðặt cọc;

    d) Ký cược;

    đ) Ký quỹ;

    e) Bảo lãnh;

    g) Tín chấp.

    2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định về biện pháp bảo đảm thì người có nghĩa vụ phải thực hiện biện pháp bảo đảm đó.

     Ðiều 342. Thế chấp tài sản

    1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp.

    Trong trường hợp thế chấp toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ của bất động sản, động sản đó cũng thuộc tài sản thế chấp.

    Trong trường hợp thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.

    Tài sản thế chấp cũng có thể là tài sản được hình thành trong tương lai.

    2. Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ. Các bên có thể thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp.

    3. Việc thế chấp quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại các điều từ Ðiều 715 đến Ðiều 721 của Bộ luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

     

    Ðiều 361. Bảo lãnh

    Bảo lãnh là việc người thứ ba (say đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

    Ðiều 367. Quyền yêu cầu của bên bảo lãnh

    Khi bên bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận khác.".

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 06:04:26 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

             1. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì UBND xã không có thẩm quyền thu hồi đất, không có thẩm quyền giao đất. Do vậy, UBND xã thu hồi đất với gia đình bạn để giao cho gia đình hàng xóm là hành vi trái pháp luật. 

            2. Gia đình bạn cần yêu cầu cán bộ UBND xã đó phải xuất trình văn bản để thực hiện việc thu hồi đất và giao đất đó. Sau khi nhận được văn bản đó thì gia đình bạn có thể khiếu nại đến chủ tịch UBND xã hoặc khởi kiện UBND xã tới TAND huyện. Nếu cán bộ UBND xã thu hồi đất của gia đình bạn mà không ban hành văn bản thu hồi thì bạn cũng có thể khiếu nại hoặc khởi kiện hành vi thu hồi đất trái pháp luật đó.

            3. Nếu hành vi thu hồi đất đó cùng với việc cưỡng chế phá dỡ tài sản thì những cán bộ có liên quan đó sẽ bị xử lý về tội hủy hoại tài sản (nếu giá trị tài sản bị phá dỡ từ 4.000.000 đồng trở lên).

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 04:02:34 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                 Theo thông tin bạn nêu thì người chồng đó đã vi phạm luật hôn nhân và gia đình. Nếu sau "lễ cưới" bất đắc dĩ đó, ông chồng thường xuyên sinh sống với cô bồ và gây hậu quả nghiêm trọng (vợ chồng ly hôn, con cái bỏ học, tự tử...) thì ông chồng và cô bồ đó có thể bị xử lý hình sự về tội vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng theo quy định tại Điều 147 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

                 " Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm".

                   Tại Mục 3 Thông tư liên tịch số 01/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC của Bộ Tư pháp - Bộ Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao ngày 25/9/2001 đã quy định: “Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình. Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó...".

                    Thông tư này cũng quy định: Chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
     
    a) Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát...

    b) Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm. "

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 03:48:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu thửa đất mà bạn đang đứng tên trên GCN QSD đất là đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước thì bạn không thể đính chính GCN QSD đất để thay đổi thông tin về nơi cư trú được. Loại đất này pháp luật quy định: Chỉ có những người cư trú tại địa phương và đang trực tiếp sản xuất nông nghiệp với được cấp GCN QSD đất.

    - Nếu thửa đất đó không thuộc loại đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước thì bạn có thể nộp hồ sơ đến phòng TN&MT để được thay đổi thông tin về địa chỉ nơi cư trú. Hồ sơ bao gồm: GCN QSD đất, CMND, Hộ khẩu. Lệ phí đăng ký biến động về quyền sử dụng đất do UBND tỉnh quy định.

    2. Tài sản chung vợ chồng: Với những tài sản có trước khi kết hôn hoặc những tài sản được tặng cho riêng, thừa kế riêng, hình thành từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân là tài sản riêng. Tài sản do vợ chồng lao động, sản xuất, tạo lập trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung hoặc tài sản được nhập từ tài sản riêng thành tài sản chung là tài sản chung. Bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 27 và Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình.

    Nếu là nhà đất đứng tên một người có trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân cấp lại GCN QSD đất và vẫn chỉ đứng tên người đó, đồng thời không có văn bản nhập vào thành tài sản chung thì tài sản đó vẫn là tài sản riêng của người đang đứng tên.

  • Xem thêm     

    19/04/2013, 03:08:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào anh Thành!

    - Đối với các trường hợp vi phạm trật tự xây dựng đô thị thì dù phần đất đó có giấy tờ hợp pháp hay không cũng không làm cho việc xây dựng đó trở lên hợp pháp.

    - Chỉ có một số trường hợp xây dựng không có giấy phép mà chủ đầu tư có đủ điều kiện cấp phép xây dựng (chưa làm thủ tục) thì Thanh tra xây dựng sẽ đình chỉ thi công và bắt buộc làm thủ tục xin phép xây dựng.

    - Đối với trường hợp xây dựng không có giấy phép (dù đã có GCN QSD đất) nhưng không đủ điều kiện để cấp phép (đất không phù hợp với quy hoạch nhưng chưa bị thu hồi) thì vẫn bị xử lý và có thể bị cưỡng chế tháo dỡ nếu không chấp hành... Như vậy, giấy tờ về chủ quyền đất không phải lúc nào cũng quyết định đến việc xử lý công trình xây dựng có vi phạm.

    Các Nghị định nêu trên đã có quy định đối với từng trường hợp cụ thể... Mong nhận được ý kiến đóng góp để nội dung tư vấn được đầy đủ, toàn diện.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    18/04/2013, 10:43:10 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Bạn cần gửi đơn tới cơ quan thi hành án để được thi hành án theo pháp luật. Nếu người phải thi hành án có tài sản hoặc sau này có tài sản thì cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành bản án đó để trả tiền cho bạn. Bạn tham khảo quy định sau đây của luật thi hành án:

    "Điều 30. Thời hiệu yêu cầu thi hành án

    1. Trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ra quyết định thi hành án.

    Trường hợp thời hạn thực hiện nghĩa vụ được ấn định trong bản án, quyết định thì thời hạn 05 năm được tính từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

    Đối với bản án, quyết định thi hành theo định kỳ thì thời hạn 05 năm được áp dụng cho từng định kỳ, kể từ ngày nghĩa vụ đến hạn.

    2. Đối với các trường hợp hoãn, tạm đình chỉ thi hành án theo quy định của Luật này thì thời gian hoãn, tạm đình chỉ không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án, trừ trường hợp người được thi hành án đồng ý cho người phải thi hành án hoãn thi hành án.

    3. Trường hợp người yêu cầu thi hành án chứng minh được do trở ngại khách quan hoặc do sự kiện bất khả kháng mà không thể yêu cầu thi hành án đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu yêu cầu thi hành án.

     

    Điều 71. Biện pháp cưỡng chế thi hành án

    1. Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải thi hành án.

    2. Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.

    3. Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người thứ ba giữ.

    4. Khai thác tài sản của người phải thi hành án.

    5. Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.

    6. Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc nhất định."

  • Xem thêm     

    18/04/2013, 10:16:56 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                Nếu chiếc điện thoại đó trị giá từ 4.000.000 đồng trở lên thì thày hiệu trưởng đó có thể bị xử lý về tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Tuy nhiên, với những vụ việc như vậy thì ít bị xử lý hình sự vì hành vi đó được đánh giá là "chưa nguy hiểm cho xã hội - chưa đến mức phải xử lý hình sự". Nếu cô giáo kia báo công an thì thày hiệu trưởng sẽ bị xử lý hành chính và buộc phải bồi thường thiệt hại cho giáo viên.

  • Xem thêm     

    18/04/2013, 09:56:01 CH | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Làm việc từ 12 tháng trở lên mới có quyền nghỉ phép. Thời gian thử việc không quá 2 tháng nên sẽ không có chế độ nghỉ phép.