Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

69 Trang 12345>»
  • Xem thêm     

    17/07/2019, 11:29:57 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Theo quy định của pháp luật thì khi bản án dân sự đã có hiệu lực pháp luật thì đương sự có thể yêu cầu cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bán án đó. 

    Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án không có tài sản thì việc thi hành án không thể triển khai được. Người được thi hành án và cơ quan thi hành án cần xác minh điều kiện thi hành án, nếu không đủ điều kiện thi hành do không có tài sản thì phải dừng thi hành án. Từ thời điểm người được thi hành án có đơn thì tiền phải thi hành án được tính lãi suất theo quy định pháp luật cho đến khi trả xong nợ.

  • Xem thêm     

    14/02/2019, 03:41:26 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật tuyên buộc đương sự phải trả tiền thì thẩm quyền thuộc về cơ quan thi hành án. Nếu bà chủ hụi không trả tiền cho mẹ bạn thì mẹ bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành: thu hồi, phát mại tài sản của người phải thi hành án...

    Tuy nhiên, nếu người phải thi hành án hiện đang không có tài sản thì phải chờ khi nào họ có tài sản thì mới có thể thi hành được, bởi đây là nghĩa vụ cá nhân của người thi hành án, gia đình, người thân có thể giúp đỡ nhưng không có nghĩa vụ trả nợ thay người đó.

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 11:48:43 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Hành vi cho người khác mượn tài khoản sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính là phạt tiền theo quy định tại Điều 5, thông tư số 23/TT-NHNN và Điều 27, Nghị định 96/2014/NĐ-CP.

    Ngoài ra. nếu bạn biết người sử dụng tài khoản để thực hiện hành vi lừa đảo mà vẫn cố tình cho mượn thì bạn sẽ bị xử lý về tội lừa đảo với vai trò là người giúp sức. 

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 11:31:58 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Với những thông tin bạn trình bày ở trên thì chưa có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Theo quy định pháp luật thì tội lạm dụng được áp dụng với người cầm tiền đó nếu người này gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng số tiền trên vào mục đích bất hợp pháp hoặc có khả năng trả tiền nhưng tuyên bố không trả để chiếm đoạt số tiền đó. Nếu không thuộc một trong các trường hợp này thì bạn chỉ có thể khởi kiện tới tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    04/10/2018, 09:29:39 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Hành vi của bạn xông vào nhà người khác đánh người là không đúng chuẩn mực pháp luật. Nếu ông ta chửi bới, xúc phạm bố bạn thì bạn được phép tố cáo ông ta để xử lý về hành vi làm nhục người khác, gây rối trật tự công cộng...

    Bởi vậy, trong vụ việc này nếu ông hàng xóm đó có đơn tố cáo bạn và thương tích tới 11% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp theo quy định tại khoản 1, Điều 134 BLHS năm 2015 sau đây thì bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích.

     

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    3. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tù từ 04 năm đến 07 năm.

    4. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.

    5. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm c khoản 6 Điều này hoặc dẫn đến chết người, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm.

    6. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

    a) Làm chết 02 người trở lên;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;

    c) Gây thương tích vào vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

    7. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

  • Xem thêm     

    04/10/2018, 08:40:26 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Theo quy định của pháp luật thì cơ quan điều tra có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Bạn đang là người bị tình nghi phạm tội, vì vậy bạn có quyền bào chữa nhưng không có nghĩa vụ chứng minh là mình không phạm tội. Bởi vậy, nếu bạn không thừa nhận hành vi của mình thì cơ quan điều tra sẽ chứng minh bằng các chứng cứ.

    Việc nhắn tin giữa hai tài khoản facebook hoặc chuyển tiền qua hai tài khoản cá nhân chưa phải là căn cứ chứng minh có việc trao đổi thông tin, giao dịch giữa hai chủ tài khoản. Nếu hai chủ tài khoản không thừa nhận thông tin, giao dịch đó do mình xác lập thì cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào các chứng cứ khác (nếu có) để kết luận vụ việc.

    Nếu thực sự bạn đã đánh bác, chứng cứ đã đầy đủ thì bạn nên thành khẩn để được hưởng khoan hồng.

  • Xem thêm     

    03/10/2018, 08:44:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn ! 

    Luật sư trả lời bạn như sau:

    1. Nếu bạn đánh lô đề trái phép qua mạng xã hội với số tiền từ 5 triệu đồng trở lên thì có thể bị xử lý về tội đánh bạc. Bởi vậy, bạn nên có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra để làm rõ vụ việc.

    2. Trong một vụ án hình sự, sau khi kết thúc điều tra mà còn một số vấn đề chưa rõ thì cơ quan điều tra vẫn có thể tách rút tài liệu để xem xét, xử lý sau. Vì vậy, trong vụ án trên, kết thúc điều tra, hồ sơ chuyển sang Viện kiểm sát rồi thì cơ quan điều tra vẫn có quyền triệu tập bạn và những người khác tới để tiếp tục làm rõ các tình tiết khác của vụ án.

  • Xem thêm     

    21/09/2018, 10:46:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Bạn có thể trình báo sự việc với công an để được xem xét, giải quyết.

  • Xem thêm     

    19/09/2018, 10:35:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Nếu có người nhắn tin, đe dọa, quấy rối bạn thì bạn có thể làm đơn trình báo sự việc với cơ quan công an để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật. Nếu hành vi làm ảnh hưởng tới tâm lý, uy tín, danh dự, nhân phẩm của bạn mà chưa tới mức nghiêm trọng thì người đe dọa bạn sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

  • Xem thêm     

    16/09/2018, 11:20:34 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Vay tiền cho người lạ là chuyện hiếm gặp. Bạn có thể trình báo sự việc với công an để được xem xét giải quyết. Vụ việc như bạn trình bày ở trên có dấu hiệu của tội lừa đảo hoặc tội cưỡng đoạt tài sản.

    Còn nếu mẹ bạn tự nguyện bảo lãnh hoặc tự nguyện vay tiền và cho người khác vay lại thì đó là quan hệ dân sự, nếu có tranh chấp sẽ được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. 

  • Xem thêm     

    16/09/2018, 10:04:14 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    Theo quy định tại khoản 2, Điều về tội Gây rối trật tự công cộng thì hình phạt được quy định như sau:

    "Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng  

    1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Dùng vũ khí, hung khí hoặc có hành vi phá phách;

    c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

    d) Xúi giục người khác gây rối;

    đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

    e) Tái phạm nguy hiểm.” 

    Theo quy định tại Điều 65 Bộ luật dân sự năm 2015 thì Án treo được quy định như sau:

    "Điều 65 Án treo 

    1. Khi xử phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ 01 năm đến 05 năm và thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.
    2. Trong thời gian thử thách, Tòa án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.
    3. Tòa án có thể quyết định áp dụng đối với người được hưởng án treo hình phạt bổ sung nếu trong điều luật áp dụng có quy định hình phạt này.
    4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát, giáo dục, Tòa án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

    5. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này.”

    Nội dung này được TAND tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, cụ thể như sau:

    ". Điều 2. Điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

    Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

    1. Bị xử phạt tù không quá 03 năm.

    2. Có nhân thân tốt.

    Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

    Đi với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.

    3. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tr lên, trong đó có ít nht 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

    Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

    4. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

    Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.

    Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

    5. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy him cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    Điều 3. Những trường hợp không cho hưởng án treo

    1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.

    3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.

    4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.

    5. Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tui.

    6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm...".

    Như vậy, theo thông tin bạn cung cấp, đối chiếu với quy định pháp luật nêu trên thì bạn vẫn có cơ hội án treo. Việc quyết định tội danh, mức hình phạt, loại hình phạt do Hội đồng xét xử quyết định trên cơ sở các quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội vaf các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc kết luận vụ án phải căn cứ vào kết quả tranh tụng công khai tại phiên tòa. Vì vậy, căn cứ vào quy định pháp luật nêu trên, bận cần viện dẫn các chứng cứ, lỹ lẽ đế thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bạn.

  • Xem thêm     

    16/09/2018, 09:44:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

     Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Việc bạn cho người đó vay tiền là quan hệ dân sự, bạn có thể đòi số tiền đó. Nếu anh ta có điều kiện nhưng cố tình không trả tiền thì có thể tố cáo anh ta về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Đối với hành vi đe dọa, chửi bới, xúc phạm... thì bạn cũng có thể trình báo sự việc với cơ quan công an để được xem xét giải quyết. Nếu hành vi dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản hoặc đe dọa giết người đến mức người bị đe dọa sợ hãi, hoảng loạn thì hành vi này cũng có dấu hiệu tội phạm.

    Bạn cần làm đơn trình báo sự việc với cơ quan chức năng để ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật của đối tượng đó và đòi lại tái sản cho bạn .

  • Xem thêm     

    11/09/2018, 05:21:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Việc xác minh tin báo, tố giác tội phạm được thực hiện theo các quy định của Bộ luật tố tụng hình sựThông tư 01/2017/TTLT thì thời gian xác minh là 20 ngày, nếu vụ việc phức tạp thì có thể kéo dài tới 2 tháng. Nếu hết thời hạn trên mà cơ quan công an cấp huyện không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng thì bạn có thể khiếu nại theo quy định pháp luật. 

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT:

    Điều 4. Nguyên tắc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

    1. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

    2. Mọi tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết kịp thời theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và quy định tại Thông tư liên tịch này.

    3. Chỉ những cơ quan và người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố mới được tiến hành giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

    4. Trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, người có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh thực hiện quy định của pháp luật và chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người làm trái pháp luật trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    5. Cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố về việc giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa.

    Điều 5. Trách nhiệm tiếp nhận, thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

    1. Các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm:

    a) Cơ quan điều tra;

    b) Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

    c) Viện kiểm sát các cấp;

    d) Các cơ quan, tổ chức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 145 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015gồm: Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an, Trạm Công an; Tòa án các cấp; Cơ quan báo chí và các cơ quan, tổ chức khác.

    2. Thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm

    a) Các cơ quan quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều này, trừ Đội An ninh ở Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây viết gọn là Đội An ninh Công an cấp huyện) có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm theo thẩm quyền điều tra của mình.

    b) Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu bằng văn bản nhưng sau 15 ngày kể từ ngày cơ quan đang thụ lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm nhận văn bản yêu cầu mà không được khắc phục.

  • Xem thêm     

    04/09/2018, 08:34:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Theo thông tin bạn nêu thì anh họ bạn bị xử lý về tội đánh bạc là có căn cứ bởi số tiền chưa tới 5 triệu đồng nhưng anh bạn đã từng bị kết án về tội đánh bạc. Số tiền đánh bạc là của anh bạn hay của người khác không phải là tình tiết định tội. Bởi vậy, anh bạn cứ tham gia đánh bài ăn tiền, bất kể tiền của ai thì hành vi này cũng là hành vi đánh bạc trái phép.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự năm 2015:

    Điều 321. Tội đánh bạc

     1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. 

  • Xem thêm     

    12/08/2018, 10:28:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường trà lời bạn như sau:

    Theo quy định pháp luật thì khi người tham gia giao thông có dấu hiệu vi phạm luật giao thông đường bộ thì cảnh sát giao thông có quyền dừng xe, kiểm tra giấy tờ và xử lý vi phạm.

    Nếu cảnh sát giao thông không tuân thủ về quy trình tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm giao thông mà lại có hành vi cố ý gây thương tích cho người vi phạm giao thông thì hành vi này là vi phạm pháp luật. 

    Nếu bị cảnh sát giao thông tấn công, gây thương tích trong khi bạn không có hành vi chống người thi hành công vụ thì bạn có quyền làm đơn trình báo tới thủ trưởng cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện và viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp. Trong đơn thư cần trình bày làm rõ thời gian, địa điểm, hành vi và thông tin của người hành hung, gây thương tích cho bạn. 

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành thì thời gian xác minh giải quyết tin báo là 20 ngày, nếu trong 20 ngày đó không có ai thụ lý đơn, mời bạn tới làm việc thì bạn có thể gửi đơn tới thanh tra công an tỉnh hoặc giám đốc công an tỉnh để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    22/07/2018, 12:05:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Nếu bạn từng sử dụng ma túy thì sẽ bị đưa vào hồ sơ theo dõi để phòng ngừa... Còn việc bạn đi làm thì hồ sơ lí lịch có thể ghi là có tiền sự (từng bị xử phạt hành chính) nếu chưa được xóa thời gian thử thách (1 năm).

    Còn nếu bạn bị xử phạt hành chính nhưng đã hết thời hạn thử thách thì lý lịch vẫn được xác nhận bình thường như những người khác. 

  • Xem thêm     

    25/06/2018, 08:20:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Pháp luật bảo vệ cả quyền nhân thân, danh dự, nhân phẩm uy tín con người, đồng thời cũng bảo vệ tính mạng, sức khỏe của công dân.

    Vì vậy, nếu em dâu bạn đăng tin xúc phạm danh dự nhân phẩm người khác (dù chỉ đăng trên trang cá nhân của mình, cho bạn bè mình biết) thì hành vi đó là sai trái. Tuy nhiên, người bị đăng tin xúc phạm có quyền yêu cầu người đăng tin phải gỡ bỏ, cải chính công khai hoặc được báo cho cơ quan có thẩm quyền xử lý chứ không được quyền đánh đập, uy hiếp người đăng tin. Nếu em dâu bạn bị người khác hành hung, gây thương tích thì cũng có quyền trình báo sự việc với cơ quan công an để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật. 

  • Xem thêm     

    29/05/2018, 11:40:17 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Theo thông tin bạn nêu thì sự việc có dấu hiệu của tội cố ý gây thương tích. Vì vậy, nếu hai bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc thì gia đình bạn có thể làm đơn trình báo sự việc với công an địa phương để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    03/03/2018, 07:26:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chà bạn !
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Nếu bạn cho người khác mượn tiền và mượn xe của mình rồi mang đi cầm cố thì đó là giao dịch dân sự, nếu có tranh chấp thì vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nơi bị đơn cư trú.

    Nếu bạn biết việc mượn xe là mang đi cầm cố mà vẫn cho mượn hoặc tham gia vào việc cầm cố đó thì bạn phải cùng chịu trách nhiệm khi người vay tiền trả tiền không đúng hạn.

    Vụ việc chỉ có thể chuyển cho công an giải quyết về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản khi người vay tiền của bạn bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc có khả năng trả nợ nhưng cố tình không trả nợ cho bạn. Còn thông tin như bạn nêu thì không có dấu hiệu của tội lừa đảo.

  • Xem thêm     

    16/11/2017, 08:34:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Người nhận tiền của bạn chỉ bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nếu người đó có thủ đoạn gian dối để bạn giao tiền, sau đó chiếm đoạt số tiền từ 2 triệu đồng trở lên của bạn.

    Nếu giao dịch giữa hai bên chỉ là vay mượn tiền, nay bên nợ tiền bạn không trả nợ đúng hẹn thì bạn có quyền đòi hoặc khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Để khởi kiện thì bạn cần có đơn khởi kiện, giấy tờ tùy thân của ban, thông tin về địa chỉ của người vay tiền và giấy tờ về việc vay mượn tiền. Tòa án nơi người vay tiền đang cư trú, làm việc sẽ có thẩm quyền giải quyết vụ việc tranh chấp đó.

69 Trang 12345>»