Chào khanh1531998!
Trước hết Luật sư lấy làm tiếc vì sự nhẹ dạ cả tin của em với những người đã lợi dụng lòng tin của em để chiếm đoạt số tiền nêu trên.
Về quy định của pháp luật liên quan tới sự việc này Luật sư tư vấn cho em như sau:
Đây là một hình thức lừa đảo chiếm đoạt tài sản - theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009. Hình thức này đang rất phổ biến trong thời gian qua khi những người thực hiện tội phạm lợi dụng sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày càng hiện đại.
Như thông tin em nêu em chỉ có số điện thoại của những người đó và hành vi lừa đảo đó được các đối tượng này thực hiện trên trang Http:zing.payapps24h.com, vì vậy các thông tin về chủ tài khoản trên trang này sẽ do Ban quản trị trang web đó quản lý, tuy nhiên cá nhân có lẽ sẽ không thể được cung cấp các thông tin mà em cần phải thông qua cơ quan công an, cơ quan điều tra để được cung cấp.
Giờ em có thể gửi đơn tố cáo tới cơ quan công an để cơ quan công an xác minh làm rõ những thông tin như em nêu với đơn vị chủ quản Website đó.
Khi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm cơ quan chức năng sẽ khởi tố vụ án hình sự và triệu tập những người bị hại để tham gia giải quyết.
“Điều 226b. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản
1. Người nào sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện một trong những hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Sử dụng thông tin về tài khoản, thẻ ngân hàng của cơ quan, tổ chức, cá nhân để chiếm đoạt hoặc làm giả thẻ ngân hàng nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ thẻ hoặc thanh toán hàng hóa, dịch vụ;
b) Truy cập bất hợp pháp vào tài khoản của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhằm chiếm đoạt tài sản;
c) Lừa đảo trong thương mại điện tử, kinh doanh tiền tệ, huy động vốn tín dụng, mua bán và thanh toán cổ phiếu qua mạng nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân;
d) Hành vi khác nhằm chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
c) Có tính chất chuyên nghiệp;
d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
đ) Gây hậu quả nghiêm trọng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”
Đó là một số nội dung Luật sư có thể tư vấn cho em, chúc em mạnh khỏe và sớm lấy lại được tài sản của mình.