Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    07/03/2012, 08:58:28 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời:
    Nội dung bạn hỏi được Bộ luật dân sự năm 2005 quy định như sau:

    "Ðiều 263. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc bảo vệ môi trường

    Khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình, chủ sở hữu phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô nhiễm môi trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện pháp để khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại.

    Ðiều 264. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc tôn trọng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội

    Khi thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình, chủ sở hữu phải tôn trọng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, không được lạm dụng quyền sở hữu để gây mất trật tự, an toàn xã hội, làm thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác.

    Ðiều 265. Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản

    1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp.

    2. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.

    Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    3. Trong trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng thì người sử dụng đất có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung; không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách.

    Ðiều 266. Quyền sở hữu đối với mốc giới ngăn cách các bất động sản

    1. Chủ sở hữu bất động sản liền kề chỉ được dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sử dụng của mình. Những người sử dụng đất liền kề có thể thỏa thuận với nhau về việc dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn, trồng cây trên ranh giới để làm mốc giới ngăn cách giữa các bất động sản; những vật mốc giới này là sở hữu chung của những người đó.

    Trong trường hợp mốc giới ngăn cách chỉ do một bên tạo nên trên ranh giới và được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý thì mốc giới ngăn cách đó là sở hữu chung, chi phí để xây dựng do bên tạo nên chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; nếu chủ sở hữu bất động sản liền kề không đồng ý mà có lý do chính đáng thì chủ sở hữu đã dựng cột mốc, hàng rào, xây tường ngăn phải dỡ bỏ.

    Ðối với cây là mốc giới chung, các bên đều có nghĩa vụ bảo vệ; hoa lợi thu được từ cây được chia đều, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    2. Ðối với mốc giới là tường nhà chung, chủ sở hữu bất động sản liền kề không được trổ cửa sổ, lỗ thông khí hoặc đục tường để đặt kết cấu xây dựng, trừ trường hợp được chủ sở hữu bất động sản liền kề đồng ý.

    Trong trường hợp nhà xây riêng biệt nhưng tường sát liền nhau thì chủ sở hữu cũng chỉ được đục tường, đặt kết cấu xây dựng đến giới hạn ngăn cách tường của mình.

    Ðiều 267. Nghĩa vụ tôn trọng quy tắc xây dựng

    1. Khi xây dựng công trình, chủ sở hữu công trình phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bảo đảm an toàn, không được xây vượt quá độ cao, khoảng cách mà pháp luật về xây dựng quy định và không được xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh.

    2. Khi có nguy cơ xảy ra sự cố đối với công trình xây dựng, ảnh hưởng đến bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ sở hữu công trình phải cho ngừng ngay việc xây dựng, sửa chữa hoặc dỡ bỏ theo yêu cầu của chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh hoặc theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    3. Khi xây dựng công trình vệ sinh, kho chứa hóa chất độc hại và các công trình khác mà việc sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường, chủ sở hữu phải xây cách mốc giới một khoảng cách và ở vị trí hợp lý, phải bảo đảm vệ sinh, an toàn và không làm ảnh hưởng đến chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh.

    Ðiều 268. Nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề

    Khi đào giếng, đào ao hoặc xây dựng các công trình dưới mặt đất, chủ sở hữu công trình phải đào, xây cách mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định.

    Trong trường hợp công trình có nguy cơ đe dọa sự an toàn bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ công trình phải thực hiện ngay các biện pháp khắc phục; nếu gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh thì phải bồi thường."

    Nếu chủ sử dụng đất liền kề không tôn trọng quy tắc sinh hoạt cộng đồng, không tuân thủ pháp luật như vậy thì gia đình bạn có thể yêu cầu chính quyền địa phương can thiệp hoặc khởi kiện để tòa án giải quyết.

  • Xem thêm     

    07/03/2012, 08:46:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Câu hỏi của bạn không cụ thể. Nếu thời điểm mở thừa kế từ năm 1987 thì đến nay đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế.
    Luật nội dung: Đối với quyền sử dụng đất thì thời điểm đó có luật cải cách ruộng đất năm 1953, luật đất đai năm 1987 (được QH thông qua ngày 29/12/1987); Nghị quyết số 58/1998/NQ-UBTVQH10 và Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 cũng có những quy định liên quan đến thừa kế nhà đất trước năm 1991.
    Về tố tụng: có Thông tư 81 của TAND tối cao.
    Bạn có thể nêu cụ thể nội dung để được luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    07/03/2012, 10:39:32 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào ban!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
              1. Theo thông tin bạn cung cấp thì giao dịch giữa ông Thành với ông Hoàng và ông Hoàng với bà Liên không tuân thủ quy định pháp luật nên là các hợp đồng vô hiệu. Hợp đồng giữa ông Thành với ông Sở là tự nguyện và đã hoàn tất thủ tục nên được pháp luật thừa nhận.
              2. Để đảm bảo quyền lợi của mình thì bà Liên có thể khởi kiện ông Hoàng để tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng;  ông Hoàng có khởi ông Thành trong vụ án khác hoặc cùng vụ án đó để giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng giữa ông Hoàng với ông Thành. Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và buộc bên chuyển nhượng phải bồi thường thiệt hại dựa trên mức độ lỗi của các bên.
  • Xem thêm     

    06/03/2012, 09:38:52 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Bạn chưa nói rõ nguồn gốc đất. Bạn xác lập quyền sử dụng đất thông qua giao dịch viết tay với bà Do. Còn bà Do xác lập quyền sử dụng đất trên cơ sở nào?
    Khi chuyển nhượng cho bạn, bà Do có một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai không? Nếu bà Do không có một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 Luật
    đất đai thì không có căn cứ để đòi lại quyền sử dụng đất và việc chuyển nhượng với bạn cũng không được pháp luật công nhận. Bạn cần xem lại hồ sơ địa chính ở
    địa phương xem phần đất tranh chấp đó thể hiện tên chủ sử dụng như thế nào? Bà Do có giấy tờ gì về quyền sử dụng đất không?
  • Xem thêm     

    06/03/2012, 09:16:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             1. Theo quy định tại Điều 358 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì đặt cọc là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (sau đây gọi là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân sự. Việc đặt cọc phải được lập thành văn bản.
           Trong trường hợp hợp đồng dân sự không được giao kết, thực hiện thì tùy từng trường hợp cụ thể, tài sản đặt cọc được giải quyết như sau:
         - Nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc;
         - Nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

            Như vậy, nếu thỏa thuận đặt cọc của bạn là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật thì thỏa thuận đó có hiệu lực  pháp luật và bắt buộc
    các bên phải thực hiện. Nếu bên nào vi phạm thì sẽ bị phạt cọc theo thỏa thuận hoặc theo pháp luật quy định.
           2. Nếu bạn muốn phạt cọc thì bạn yêu cầu bên chuyển nhượng tiếp tục thực hiện hợp đồng đặt cọc và bồi thường thiệt hại (nếu có) do chậm thực hiện thủ tục chuyển nhượng.
           Nếu bên chuyển nhượng không thực hiện đúng nội dung thỏa thuận đặt cọc thì đồng nghĩa với việc  họ đã vi phạm thỏa thuận đặt cọc - "từ chối việc giao kết hợp đồng" (việc giảm diện tích, giảm ngõ đi chỉ là cái cớ để vi phạm hợp đồng!) nên phải chịu phạt cọc theo thỏa thuận hoặc theo quy định tại Điều 358 BLDS.
  • Xem thêm     

    06/03/2012, 08:57:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                 Nếu việc ủy quyền liên quan đến bất động sản thì bắt buộc phải có công chứng. Còn nội dung ủy quyền liên quan đến các lĩnh vực khác thì có thể có, có thể không (ví dụ: Ủy quyền họp đại hội cổ đông có công ty bắt buộc giấy ủy quyền phải có công chứng, có công ty thì không cần; Ủy quyền tham gia tố tụng có Tòa án bắt buộc công chứng, có tòa cần ủy quyền tại tòa hoặc chứng thực chữ ký là được...). Bạn hãy nêu nội dung ủy quyền cụ thể để có câu trả lời cụ thể
  • Xem thêm     

    06/03/2012, 08:51:05 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                Bạn xem nội dung luật sư trả lời ở trên. Về nguyên tắc ai tham gia giao dịch nào thì có thể khởi kiện để tòa án xem lại giao dịch đó và người bị kiện là bên còn lại của giao dịch đó.
  • Xem thêm     

    05/03/2012, 08:58:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           - Nếu chưa có tranh chấp thì ai đang có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì người đó là chủ sử dụng hợp pháp.
           - Nếu người đang có GCN mà bị thu hồi, hủy bỏ do cấp sai thì người chủ cũ được xác định là chủ sử dụng hợp pháp.
           - Nếu vụ việc tranh chấp hợp đồng mà tòa án giải quyết, nếu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển  nhượng vô hiệu thì thửa đất được trả lại cho chủ cũ và chủ cũ trả lại tiền cho bên chuyển nhượng, bên nào có lỗi phải bồi thường.
  • Xem thêm     

    05/03/2012, 08:52:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Theo thông tin bạn nêu thì bức tường đó là sở hữu chung của hai nhà (mỗi bên 1/2). Thông thường thì 99% là nhà nào xây trước phải để lại bức tường đó cho nhà kia sử dụng (phải xây lùi móng nhà lại) nếu không gia đình hchỉ cần hàng xóm có đơn với chính quyền địa phương tranh chấp mốc giới là bên kia không thể xây dựng được.  Nếu hai bên không thỏa thuận được về việc sử dụng bức tường đó thì có thể yêu cầu UBND xã hòa giải và Tòa án giải quyết. Nếu có tranh chấp thì nhà chú bạn cũng không thể xây dựng được...
  • Xem thêm     

    05/03/2012, 10:03:01 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu thanh tra TN&MT đã kết luận là GCN QSD đất cấp không đúng pháp luật thì sẽ đồng thời kiến nghị UBND ra quyết định hủy GCN QSD đất. Khi UBND hủy GCN QSD đất thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định của pháp luật. Những ai có lỗi, gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên kia.
             Nếu Tòa án phán xét hợp đồng, giao dịch đó nhưng không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì bản án đó là sai sót, các đương sự có thể khiếu nại để người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục Giám đốc thẩm kháng nghị, yêu cầu Tòa án hủy bản án đã có hiệu lực pháp luật để giải quyết lại mới đảm bảo được quyền lợi của các đương sự.
              Hành vi của bà Bản cần được xem xét, nếu có dấu hiệu tội phạm thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.
  • Xem thêm     

    04/03/2012, 02:29:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
           1. Điều 3, Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND ngày 25/2/2009 của UBND thành phố HCM quy định diện tích thửa đất tối thiểu được phép tách thửa ở khu vực huyện Củ Chi là 120m2 mặt tiền tối thiểu 7m (nếu đất không có nhà ở) và 80m2 mặt tiền tối thiểu 5m (đối với thửa đất đã có nhà ở). Như vậy, theo quy định trên thì thửa đất mà bạn muốn mua chưa đủ điều kiện để tách thửa đất theo quy định pháp luật.
           2. Bạn có thể lựa chọn phương pháp hai người mua chung hai ngôi nhà để cùng tách chung một sổ. Tuy nhiên cách này cũng có những hạn chế nhất định. Nếu bạn mua bằng giấy tay thì rất rủi ro bởi hợp đồng đó là vô hiệu. Nếu chọn phương án viết tay hoặc mua chung thì bạn cần phải lập hợp đồng thật chặt chẽ để phòng khi tình huống xấu nhất có thể xảy ra.
  • Xem thêm     

    03/03/2012, 03:11:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Trong vụ việc này cần làm rõ một số nội dung sau:

    1.     Làm rõ hành vi xin cấp lại GCN QSD đất của bà Bản, trong khi thửa đất đó đang được bà Bản thế chấp tại Ngân hàng. Bà bản dùng GCN QSD đất mới để giao dịch sẽ có thể phạm tội lừa đảo, chiếm đoạt tài sản;

    2.     Các cơ quan có thẩm quyền cần yêu cầu Cơ quan cấp GCN trả lời về GCN QSD đất do bà Bản và ông Vượng giữ, cái nào có hiệu lực (thông thường thì GCN của ông Vượng đã bị hủy theo quyết định của UBND trước khi cấp lại cho bà Bản);

    3.     Những người nhận chuyển nhượng của bà Bản là người thứ ba ngay tình, nhận được tài sản thông qua giao dịch hợp pháp nên sẽ được pháp luật bảo vệ theo Điều 258 BLDS. Điều 258 BLDS năm 2005 quy định: “Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị huỷ, sửa”.

    4.     Giao dịch giữa ông Chương và bà Bản chưa hợp pháp nên tòa án xử như vậy là đúng. Nếu tòa án xác định bà Toàn là người thứ ba ngay tình và công nhận giao dịch đó thì ông Chương không thể yêu cầu thi hành án đối với thửa đất mà bà Toàn đang sử dụng được.

  • Xem thêm     

    03/03/2012, 02:18:08 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
            Nếu là tài sản chung vợ chồng, người vợ chết mà không để lại di chúc thì phần tài sản của người vợ (1/2) tài sản chung thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1 , Điều 676 BLDS bao gồm: Chồng, bố mẹ của vợ và các con. Do vậy, sau khi vợ chết mà gia đình không thống nhất được việc sử dụng, phân chia tài sản của vợ để lại thì bố mẹ của người vợ có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án chia thừa kế.
            Nếu tài sản (nhà, đất) vợ chồng có nguồn gốc là do bố mẹ vợ cho nhưng chưa thực hiện thủ tục đăng ký sang tên... thì bố mẹ vợ cũng có thể khởi kiện để đòi lại tài sản đó.
  • Xem thêm     

    01/03/2012, 11:33:42 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu gia đình bạn sử dụng đất ổn định từ năm 1990 và có đóng thuế đất hàng năm thì có thể được xem xét cấp GCN QSD đất (với điều kiện chủ đất cũ không tranh chấp).
              Nếu chủ đất cũ tranh chấp (họ đã có GCN QSD đất hoặc một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai) thì gia đình bạn sẽ thua kiện.
              Nếu gia đình bạn không có hợp đồng hoặc giấy giao nhận tiền để chứng minh có việc chuyển nhượng thì chỉ có thể xác định là gia đình bạn đang sử dụng nhờ và phải trả lại họ. Nếu cả hai bên đều không có một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 luật đất đai và gia đình bạn đang trực tiếp sử dụng đất, hạn mức sử dụng đất ít hơn nhà hàng xóm thì gia đình bạn mới có cơ hội thắng kiện.
  • Xem thêm     

    01/03/2012, 11:22:24 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
                     1. Theo thông tin bạn nêu thì hợp đồng chuyển nhượng (viết tay năm 2009) của bạn là không phù hợp với quy định của pháp luật nên nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ để thời gian khoảng 1 tháng để hai bên  công chứng hợp đồng và sang tên. Nếu các bên không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 BLDS (bên nào nhận của nhau thứ gì thì hoàn trả, bên nào có lỗi thì phải bồi thường).
                     2. Gia đình bạn chỉ có thể lập hợp đồng và tách sổ nếu:
    - Có bản gốc GCN QSD đất và các giấy tờ liên quan của bên chuyển nhượng;
    - Có chữ ký trực tiếp của Bên chuyển nhượng vào hợp đồng khi công chứng và các giấy tờ kê khai tách thửa.
                     3. Nếu vụ việc tranh chấp chưa được giải quyết mà chủ đất chuyển nhượng cho người khác hoặc thế chấp Ngân hàng để vay tiền thì nguy cơ mất nhà của gia đình bạn sẽ rất cao. Do vậy, gia đình bạn nên giải quyết sớm vụ việc trước khi quá muộn.
  • Xem thêm     

    29/02/2012, 10:45:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn nghiemvietthach!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:

             1. Nếu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bạn bị mất chứ không phải bị lừa để mang thế chấp tại ngân hàng (đã được đăng ký thế chấp) thì gia đình bạn có thể thực hiện thủ tục báo mất GCN QSD đất và tiến hành thủ tục xin cấp lại GCN QSD đất theo quy định tại Điều 24 Nghị định số88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 của Chính phủ về cấp GCN QSD đất, QSH nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, cụ thể như sau:
             "Điều 24. Cấp lại Giấy chứng nhận do bị mất

    1. Người đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc cấp có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận, hồ sơ gồm:

    a) Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận;

    b) Giấy tờ xác nhận việc mất Giấy chứng nhận của công an cấp xã nơi mất giấy;

    c) Giấy tờ chứng minh đã đăng tin mất Giấy chứng nhận trên phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương (trừ trường hợp mất giấy do thiên tai, hỏa hoạn) đối với tổ chức trong nước, tổ chức nước ngoài, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; trường hợp hộ gia đình và cá nhân thì chỉ cần có giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc đã niêm yết thông báo mất giấy tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã;

    2. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất kiểm tra hồ sơ; trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký quyết định hủy Giấy chứng nhận bị mất, đồng thời cấp lại Giấy chứng nhận mới; trao Giấy chứng nhận cho người đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận.".


              2. Nếu GCN QSD đất của gia đình bạn đã được thế chấp để vay tiền ngân hàng (bằng hợp đồng ủy quyền giả hoặc chữ ký giả..) và GCN QSD đất đã được Phòng TN&MT đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật (đóng dấu đăng ký thế chấp vào trang thứ 4 và lưu vào hồ sơ) thì gia đình bạn không thể thực hiện được thủ tục xin cấp lại GCN QSD đất theo quy định tại Điều 24 Nghị định số88/2009/NĐ-CP nêu trên. Trong trường hợp này gia đình bạn chỉ có thể khởi kiện hợp đồng bảo lãnh, thế chấp để đề nghị Tòa án tuyên hủy bỏ hợp đồng do lừa dối, giả mạo... Sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì gia đình bạn được trả lại GCN QSD đất hoặc căn cứ vào bản án để xin cấp GCN QSD đất mới.

  • Xem thêm     

    29/02/2012, 10:23:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn có thể khiếu kiện nhưng có thắng kiện hay không lại là chuyện khác.
    Bạn nói có mua bán nhưng không xuất trình được giấy tờ mua bán. Gia đình bạn có thực tế sử dụng phần đất đó không? Có đóng thuế sử dụng đất không? bạn đã có tên trên sổ sách quản lý đất đai của địa phương không? Nếu tất cả đều là "không" thì tỷ lệ % thắng kiện của bạn là 0%.
    Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để được luật sư trả lời.
  • Xem thêm     

    29/02/2012, 09:55:17 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
               1. Theo thông tin bạn nêu thì phần đất đó đang có tranh chấp nên bạn không thể thực hiện được thủ tục xin cấp GCN QSD đất và không thể xin được giấy phép xây dựng.
                2. Điểm đ khoản 4 điều 14 của Nghị định 84/2007/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật đất đai quy định: Hộ gia đình cá nhân sử dụng đất trước ngày 15-10-1993 không được cấp giấy chứng nhận đối với phần diện tích vi phạm trong trường hợp tại thời điểm bắt đầu sử dụng đất đã có hành vi vi phạm là lấn chiếm đất sử dụng cho mục đích công cộng, đất chuyên dùng, đất của tổ chức, đất chưa sử dụng.
              Tuy nhiên, khoản 5 điều 14 của Nghị định 84/2007/NĐ-CP có quy định: “
    Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất thuộc trường hợp quy định tại khoản 4 điều này nhưng phù hợp với quy hoạch tại thời điểm cấp giấy chứng nhận thì được cấp giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất”.
              Do vậy, nếu sau khi giải quyết tranh chấp đất đai với gia đình hàng xóm mà diện tích đất của gia đình bạn phù hợp với quy hoạch thì có thể được cấp GCNQSD đất theo quy định tại khoản 5 điều 14 của Nghị định 84/2007/NĐ-CP nêu trên.
              Trước hết bạn phải giải quyết dứt điểm tranh chấp với nhà hàng xóm đó. Nếu UBND xã phường hòa giải không thành thì bạn có thể yêu cầu Tòa án hoặc UBND giải quyết theo thẩm quyền quy định tại Điều 136 Luật đất đai năm 2003.
  • Xem thêm     

    28/02/2012, 11:45:39 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
                  Luật đất đai quy định quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất và của các cơ quan quản lý đất đai. Trong đó, người sử dụng đất có nghĩa vụ chấp hành pháp luật về đất đai, nghiêm cấm hành vi lấn chiếm đất đai... Người sử dụng đất có nghĩa vụ chấp hành các quyết định của cơ quan quản lý đất đai. Tuy nhiên, pháp luật không quy định cưỡng chế đo đất. Mà thực tế cũng không cần phải cưỡng chế mới đo được đất. Với công nghệ đo đạc hiện nay thì chỉ cần đứng bên nhà hàng xóm dùng máy đo chiếu là đo được rồi.
  • Xem thêm     

    27/02/2012, 10:10:40 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào anh Hải!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời anh như sau:
              1. Theo thông tin anh nêu ở trên thì "2 gian nhà và 1 mảnh vườn" đó là tài sản do bố mẹ anh để lại không có di chúc do vậy di sản thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của bố mẹ anh là 4 anh em và ông bà nội, ngoại. Nay gia đình anh cần kiểm tra xem hồ sơ địa chính có tên của bố mẹ anh đối với nhà đất đó không? Qua các thời kỳ đo đạc bản đồ thì diện tích đất có biến động không (có giảm đi?) lý do biến động của thửa đất (có phải do lấn chiếm hay đo đạc sai sót?)
              2. Để đòi lại diện tích đất bị lấn chiếm thì gia đình anh phải có đơn yêu cầu UBND xã hòa giải tranh chấp đất đai. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì gia đình anh có thể yêu cầu Tòa án hoặc UBND huyện giải quyết theo quy định tại Điều 136 luật đất đai năm 2003 (đất không có giấy tờ thì thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND, nếu đất có một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc về tòa án).
              3. Sau khi có quyết định giải quyết tranh chấp của cơ quan có thẩm quyền thì gia đình anh tiến hành thủ tục xin cấp GCN QSD đất và quyền sở hữu nhà ở theo quy định, bản án đó.
               4. Anh lưu ý là nếu khởi kiện tại Tòa án thì tất cả những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ba mẹ anh theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS năm 2005 cùng ký đơn khởi kiện thì mới đảm bảo đúng thủ tục tố tụng.