Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    21/02/2012, 10:24:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
            1. Theo quy định của pháp luật thì đất đang có tranh chấp sẽ không được cấp giấy phép xây dựng và không được cấp GCN QSD đất (Điều 50 Luật đất đai). Kể cả trong trường hợp thửa đất có GCN QSD đất và Giấy phép xây dựng nhưng có tranh chấp thì vẫn phải dừng việc xây dựng để chờ giải quyết.
            2. Nếu một bên đã có GCN QSD đất, một bên chưa có GCN QSD đất thì Tòa án sẽ xem lại việc cấp GCN QSD đất đó có đúng pháp luật hay không. Nếu GCN QSD đất được cấp sai thì bên có GCN vẫn có thể thua kiện. Tòa án giải quyết tranh chấp đất đai sẽ căn cứ vào hồ sơ địa chính (nguồn gốc đất) và các chứng cứ mà hai bên xuất trình chứ không căn cứ chỉ riêng một loại giấy tờ nào.
           Theo quy định của luật đất đai hiện hành thì Sổ địa chính, sổ đăng ký ruộng đất và GCN QSD đất có giá trị pháp lý ngang nhau. Người nào có tên trên Sổ địa chính hoặc Sổ đăng ký ruộng đất thì đủ điều kiện được cấp GCN QSD đất theo quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 50 luật đất đai
  • Xem thêm     

    21/02/2012, 09:55:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Nếu đất đã có GCN QSD đất mà các bên không tuân thủ về hình thức chuyển nhượng (chưa công chứng, sang tên) nhưng thửa đất có nhà ở thì Tòa án có thể áp dụng quy định tại điểm b, tiểu mục 2.2, mục 2, Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của HĐTP TAND tối cao để giải quyết như sau:
            "Đối với hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu do không tuân thủ điều kiện về hình thức của hợp đồng, khi có tranh chấp và theo yêu cầu của một hoặc các bên Toà án áp dụng Điều 139 BLDS để ra quyết định buộc một hoặc các bên phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong thời hạn một tháng, kể từ ngày Toà án ra quyết định thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng. Nếu có một bên đương sự vắng mặt thì thời hạn này tính từ ngày bên đương sự vắng mặt nhận được quyết định của Toà án.

             Trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan, thì thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn một tháng đó. Quá thời hạn một tháng mà họ không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để thực hiện các thủ tục để hoàn thiện về hình thức của hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Bên có lỗi làm cho hợp đồng bị vô hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức vì không thực hiện theo quyết định của Toà án thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 146 BLDS.".
            Nếu thửa đất đó không có nhà ở thì Tòa án chỉ áp dụng Bộ luật dân sự, các quy định của luật đất đai và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để giải quyết. Tòa án chỉ công nhận hợp đồng trong một số trường hợp đã được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP nêu trên.

  • Xem thêm     

    20/02/2012, 12:17:40 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            1. Theo thông tin bạn nêu thì ông A có quyết định giao đất do UBND huyện ban hành từ năm 1990 do vậy có đủ căn cứ để ông A khởi kiện đòi quyền sử dụng đất từ ông C;
            2. Nếu sau này ông C được UBND huyện ban hành quyết định để giao thửa đất đó hoặc cấp GCN QSD đất cho ông C thì UBND huyện đã vi phạm quy định về quản lý đất đai. Do vậy, ông A có quyền yêu cầu UBND huyện giao cho ông A thửa đất khác và không phải nộp tiền sử dụng đất (thực tế trong trường hợp này thường giải quyết như vậy để đảm bảo quyền lợi của các bên);
           3. Nếu ông C chưa có Quyết định giao đất hoặc chưa có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 luật đất đai hoặc chưa được cấp GCN QSD đất thì phải trả lại diện tích đất trên cho ông A.
  • Xem thêm     

    19/02/2012, 09:56:34 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Điều 29, Luật đất đai quy định về sử dụng đất trong khu vực quy hoạch như sau:
    "2. Trường hợp quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố có diện tích đất phải thu hồi mà Nhà nước chưa thực hiện việc thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng theo mục đích đã xác định trước khi công bố quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; nếu người sử dụng đất không còn nhu cầu sử dụng thì Nhà nước thu hồi đất và bồi thường hoặc hỗ trợ theo quy định của pháp luật.

    Nhà nước nghiêm cấm mọi hoạt động tự ý xây dựng, đầu tư bất động sản trong khu vực đất phải thu hồi để thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Trường hợp có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình gắn liền với đất phải thu hồi mà làm thay đổi quy mô, cấp công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

    3. Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án, công trình hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau ba năm không được thực hiện theo kế hoạch thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh hoặc huỷ bỏ và công bố.".

            Do vậy, gia đình bạn cần tìm hiểu thông tin xem quy hoạch sử dụng đất đó đã được điều chỉnh hoặc hủy bỏ hay chưa?

    2. Để biết thửa đất đó của gia đình bạn đã được cấp GCN QSD đất hay chưa thì bạn cần có đơn gửi Phòng TN&MT để hỏi về thông tin thửa đất của gia đình bạn. Nếu thửa đất đó đã được cấp GCN QSD đất thì không có lý do gì để giữ GCN QSD đất của gia đình bạn.

    3. Nếu thửa đất của gia đình bạn được sử dụng ổn định trước 15/10/1993 thì không phải nộp tiền sử dụng đất khi cấp GCN QSD đất (khoản 4, Điều 50 Luật đất đai).

  • Xem thêm     

    18/02/2012, 08:50:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Các trường đại học, cao đẳng đều có môn học cơ bản về luật (luật đại cương, luật kinh tế...). Còn bạn muốn sâu hơn về luật thì có thể học thêm tại chức luật buổi tối hoặc học văn bằng hai sau khi tốt nghiệp đại học. Nếu am hiểu pháp luật thì bạn sẽ tự tin hơn trong cuộc sống và có thể tự bảo vệ mình...
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    18/02/2012, 08:40:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    18/02/2012, 03:45:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Nhận thức pháp luật và quan điểm pháp lý của mỗi người là khác nhau đối với cùng một vấn đề. Bạn có thể tham khảo ý kiến của nhiều người để tìm ra cách giải quyết cho mình. Tuy nhiên, mọi ý kiến chỉ có tính chất tham khảo, ý kiến của "chuyên gia" sẽ đáng tin cậy hơn ý kiến của "người ta". Quyết định chọn giải pháp nào là của bạn còn quyết định của Tòa án sẽ là quyết định cuối cùng, khi đó mới có kẻ đúng người sai.
              Quan điểm cá nhân tôi đồng tình với 1/2 ý kiến trên:
    - Tài sản của ông bà bạn đã được chia (do thửa đất được chia thành hai thửa đứng tên ông một thửa, bà một thửa);
    - Theo thông tin bạn nêu thì không có văn bản nào có giá trị pháp lý thể hiện là bà bạn đã cho mẹ bạn diện tích đất đó nên nếu có tranh chấp về thừa kế thì đất của bà bạn sẽ được chia đều cho các thừa kế theo quy định của pháp luật. Trong giao dịch về bất động sản thì "im lặng" không phải là "đồng ý" nên nếu bà ngoại bạn im lặng để mẹ bạn được cấp GCN QSD đất chưa phải là căn cứ để xác định bà ngoại bạn đã tặng cho mẹ bạn thửa đất đó.
  • Xem thêm     

    18/02/2012, 03:34:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn muốn vào "ngành luật" thì phải trải qua các trường lớp có đào tạo về luật để có kiến thức và bằng cấp. Bạn không nói rõ là bạn đã học trường đại học nào chưa? Đang làm nghề gì nên luật sư chưa thể tư vấn cụ thể cho bạn được.
  • Xem thêm     

    18/02/2012, 03:30:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bác như sau:
                1. Nếu bác có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì bác có thể đòi lại được phần đất bị hàng xóm lấn chiếm. Bác tham khảo quy định sau đây tại Điều 50 luật đất đai:
                "
    Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên #ff0000;">giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất..".
               2. Nếu bác có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, Điều 50 Luật đất đai nêu trên hoặc người chuyển nhượng cho bác có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 thì bác có thể gửi đơn đề nghị hòa giải giải quyết tranh chấp đất đai đến UBND cấp xã nơi có đất để được UBND xã hòa giải giữa bác với gia đình hàng xóm đó. UBND xã sẽ phối hợp với Mặt trận và các thành viên của Mặt trận để tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì bác gửi đơn khởi kiện tranh chấp đất đai đến Tòa án địa phương để được giải quyết.
              3. Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì bác xin cấp GCN QSD đất theo nội dung của quyết định, bản án đó.

  • Xem thêm     

    18/02/2012, 02:15:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng giấy viết tay (hợp đồng không được công chứng, chứng thực) trước ngày 01/7/2004 chỉ có thể được pháp luật công nhận nếu bên nhận chuyển nhượng đả trả tiền chuyển nhương và nhận đất để sử dụng. Bên nhận chuyển nhượng đã xây nhà kiên cố, trồng cây lâu năm mà bên chuyển nhượng không phản đối, chính quyền không xử phạt...
            Bạn có thể tham khảo quy định tại tiểu mục 2,3 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 01/8/2004 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau:
    "
    Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a. Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b. Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a gia tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này, nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này, nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch."

  • Xem thêm     

    17/02/2012, 08:11:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
    Nội dung bạn trình bày chưa rõ ràng. Trước hết phải làm rõ:
    1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự đã được thi hành chưa? Nếu Quyết định đó đã được thi hành thì mẹ bạn mới có quyền định đoạt toàn bộ ngôi nhà đó. Khi mẹ bạn trả tiền cho các thừa kế khác thì mới có quyền định đoạt phần di sản mà đáng ra họ được hưởng.
    2. Di chúc của mẹ bạn có hợp pháp theo quy định tại Điều 652 BLDS hay không?
    3. Đồng sở hữu là những người có chung quyền sở hữu đối với tài sản. Còn đồng thừa kế là những người cùng hàng thừa kế đối với một di sản.
    4. Bạn chỉ có thể định đoạt được toàn bộ tài sản đó nếu bạn là chủ sở hữu tài sản duy nhất hoặc được các đồng sở hữu tài sản ủy quyền định đoạt.
  • Xem thêm     

    17/02/2012, 04:57:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Nếu việc mua bán của bạn với chủ đầu tư là hợp pháp thì trong Hợp đồng mua bán căn hộ thỏa thuận mua bán diện tích nào thì gia đình bạn  sẽ được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu căn hộ đối với diện tích đó.
  • Xem thêm     

    17/02/2012, 12:47:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu phần đất đã được ông bà bạn thỏa thuận chia làm hai thửa, bản đồ các thời kỳ từ năm 1986 đến nay đều thể hiện là 2 thửa đất (ông 1 thửa, bà 1 thửa) thì thửa đất gia đình bạn đang sử dụng là tài sản riêng của bà. Bà bạn tặng cho mẹ bạn bằng miệng nên không hợp pháp do vậy nếu bác bạn khởi kiện thì thửa đất của gia đình bạn sẽ được chia thừa kế theo quy định của pháp luật.
  • Xem thêm     

    16/02/2012, 10:57:43 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:
            1. Trước tiên cần xem lại việc "chia đất" của ông ngoại bạn và bà ngoại bạn tháng 8/1986. Nếu từ thời điểm đó thửa đất được tách làm 02 thửa, ông bà bạn mỗi người đứng tên một thửa và hai bên không có tranh chấp gì thì có thể thừa nhận một sự thật là ông bà bạn đã chia tài sản chung vợ chồng.
            2. Nếu thửa đất đã được phân chia thành hai thừa từ năm 1986 và nay đã được cấp thành 02 GCN QSD đất thì phần đất của ông bạn đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế (ông bạn mất năm 1986) nên phần đất mà ông bạn đứng tên sẽ do bác bạn được tiếp tục quản lý.
           3. Đối với phần đất của bà bạn: Nếu việc bà bạn để cho mẹ bạn đứng tên là hợp pháp (có văn bản tặng cho) thì di sản của bà bạn không còn (đã chuyển sang mẹ bạn) nên các cô bác không thể được chia thừa kế đối với diện tích đất đó. Nếu bà bạn không có văn bản nào thể hiện là cho đất mẹ bạn thì GCN QSD đất đứng tên mẹ bạn là cấp sai và các bác,cô bạn vẫn có quyền chia thừa kế đối với phần nhà đất do mẹ bạn đang quản lý.
           4. Nếu chưa có căn cứ xác định thửa đất của ông bạn và bà bạn đã được phân chia (cả đất nhà bạn và đất nhà bác bạn đều thuộc sở hữu chung của ông bà, chưa chia) thì mẹ bạn và bác bạn mỗi bên sẽ bỏ ra 1/2 diện tích nhà đất để chia thừa kế nếu có người khởi kiện , yêu cầu Tòa án chia thừa kế của bà bạn.
           Nếu còn nội dung nào chưa rõ, thì bạn có thể đặt tiếp câu hỏi để được luật sư trả lời cụ thể.
  • Xem thêm     

    16/02/2012, 08:51:57 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau;
              1. Nếu người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho gia đình bạn có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 thì gia đình bạn được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai.

               2. Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định căn cứ xác lập quyền sử dụng đất như sau:

    "- Đất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.

    - Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

    - Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng #ff0000;">được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai."

    Như vậy, quyền sử dụng đất của gia đình bạn được xác lập dựa trên căn cứ là việc chuyển quyền sử dụng đất (giấy tay có người làm chứng năm 1990). Do vậy, trong giấy chuyển nhượng viết tay đó thỏa thuận diện tích chuyển nhượng bao nhiêu thì gia đình bạn được công nhận quyền sử dụng đất từng đó. Trừ trường hợp phần đất chuyển nhượng đó có một phần của nhà hàng xóm (chủ sử dụng đất trước đây không có quyền định đoạt toàn bộ thửa đất đã chuyển nhượng cho bạn).

             3. Để đòi lại 1m đất mặt tiền đó bạn cần đề nghị UBND cấp xã nơi có đất hòa giải. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì gia đình bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án để được giải quyết. Việc gia đình bạn ký vào biên bản xác nhận mốc giới của nhà hàng xóm không phải là căn cứ làm mất quyền sử dụng đất của gia đình bạn.
  • Xem thêm     

    16/02/2012, 12:26:28 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Hiện nay, ở nước ta chưa có quy định pháp luật nào về việc người sử dụng đất được nhận tiền chênh lệch giữa loại đất (loại đất đang sử dụng và loại đất được chuyển đổi) khi chuyển mục đích sử dụng đất. Bởi có thể quan điểm của nhà làm luật là: Khi chuyển mục đích SDĐ là đáp ứng yêu cầu của người sử dụng đất rồi (có lợi rồi) nên không được nhận tiền chênh lệch nữa. Hơn nữa, thực tế nếu là đất ở, không cần chuyển mục đích sử dụng đất thì bạn vẫn có thể sử dụng vào mục đích kinh doanh mà không bị xử lý gì...
  • Xem thêm     

    15/02/2012, 11:56:24 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, cảm ơn bạn!
  • Xem thêm     

    14/02/2012, 08:25:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Luật sư đã trả lời bạn.
  • Xem thêm     

    14/02/2012, 08:24:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Hợp đồng của bạn chưa có hiệu lực pháp luật

    Theo quy định tại Điều 688, Điều 692 Bộ luật Dân sự; Điều 46 Luật Đất đai và Khoản 4 Điều 146 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/11/2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai thì: Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.

    Luật đất đai quy định "đăng ký quyền sử dụng đất" là việc ghi tên người sử dụng đất vào hồ sơ địa chính (đồng thời với việc sang tên sở hữu tài sản - Cấp GCN QSD đất cho bên nhận quyền sử dụng đất).

    Theo thông tin mà bạn nêu thì Hợp đồng chuyển nhượng QSD đất giữa bạn với ông A chưa có hiệu lực pháp luật (chưa được đăng ký). Do vậy, quyền sở hữu tài sản chưa được chuyển giao cho bạn, ông A có thể đòi lại tài sản đó.

    2. Bạn cần thương lượng với ông A, nếu không được thì khởi kiện
              Nếu bạn thương lượng với ông A không có kết quả. Ông A cố tình cản trở việc thực hiện hợp đồng để đòi lại đất (vụ việc tranh chấp kiểu này thường diễn ra ở thời điểm sốt đất) thì bạn chỉ còn cách là khởi kiện để yêu cầu ông A thực hiện hợp đồng. Tòa án sẽ để thời gian 01 tháng để hai bên đi hoàn tất thủ tục, nếu các bên vẫn không hoàn tất thủ tục chuyển quyền sử dụng đất thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và áp dụng Điều 137 BLDS để giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu: Bạn trả lại đất, ông A trả lại bạn tiền, bên nào có lỗi thì phải bồi thường (giá trị quyền sử dụng đất tăng lên là thiệt hại của bạn và có thể ông A phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đó cho bạn - Số tiền bồi thường đó đủ để bạn chi phí tố tụng!).
              Do vậy, cách tốt nhất là thương lượng, có thể nhượng bộ thêm 1 chút để đạt kết quả.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    14/02/2012, 02:03:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất của bạn đã hình thành trước khi có quy định của UBND thành phố Hà Nội quy định về diện tích tối thiểu tách thửa đất (30m2) nên không bị hạn chế bởi quy định pháp luật đó (Quyết định 26/2008/UBND và Quyết định 58/2009/UBND).
              2. Điều kiện bồi thường về đất được quy định tại khoản 1, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 cụ thể như sau:

    " Điều 14. Nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ

    1. Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (sau đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44, 45 và 46 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai (sau đây gọi là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ."

               Điều 8, Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 quy định về điều kiện để được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
    "Điều 8. Điều kiện để được bồi thường đất
    Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:
    1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.
    2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai.
    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:
    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;
    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;
    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;
    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;
    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
    5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.
    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này, nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó không có tranh chấp.
    7. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.
    8. Hộ gia đình cá nhân sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp.
    9. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.
    10. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
    11. Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:
    a) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;
    b) Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước;
    c) Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân
    ."