Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 11:16:00 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Nếu thửa đất đó có trước khi kết hôn và vợ chồng bạn không có văn bản nào thỏa thuận thửa đất đó là tài sản chung thì thửa đất đó vẫn là tài sản riêng của chồng bạn.

                Ngôi nhà được xây dựng trong thời kỳ hôn nhân nên có thể được xác định là tài sản chung vợ chồng. Nếu chồng bạn yêu cầu chia tài sản chung khi ly hôn đồng thời chứng minh là số tiền xây nhà là chồng bạn đi vay thì cũng có thể Tòa án vẫn xác định toàn bộ nhà đất là tài sản riêng của chồng bạn.

              Để đảm bảo quyền lợi của mình thì bạn cần xuất trình các chứng cứ về nguồn tiền để xây dựng ngôi nhà đó là tài sản riêng của bạn hoặc là tài sản chung vợ chồng thì bạn mới có thể được chia tài sản chung đối với ngôi nhà đó.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:59:03 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu bạn muốn sang tên xe thì phải đăng ký Công an tỉnh Thái Bình chứ không thể đăng ký biển số Hà Nội được. Mức thuế, phí phụ thuộc vào giá trị chiếc xe mà bạn mua.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:55:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự sửa đổi năm 2009:

     "Điều 248. Tội đánh bạc

     1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm: a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

     c) Tái phạm nguy hiểm.

     3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.".

              Như vậy, trường hợp phạm tội của bạn thuộc khoản 1, Điều 248 BLHS và bạn có một tình tiết tăng nặng là tái phạm. Thông thường với những tình tiết như vậy thì hình phạt của bạn sẽ khoảng 24 đến 26 tháng tù giam. Với những người khác không tái phạm, có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên, có nơ cư trú rõ ràng, nhân thân tốt... thì có thể bị xử phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù dưới ba năm và cho hưởng án treo.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:47:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu người đó biết rõ là sự việc ngoại tình không có thực nhưng cố tình loan tin, bịa chuyện nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác thì có thể bị khởi tố về tội vu khống theo quy định tại Điều 122 BLHS. Nạn nhân có thể gửi đơn trình báo với công an cấp huyện nơi có hành vi vu khống xảy ra để được xem xét giải quyết.

                Đồng thời với việc yêu cầu xử lý hình sự, nạn nhân còn có thể yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần, mức bồi thường không quá 10 tháng lương tối thiểu (Nghị quyết số 03/2006/NQ-HDTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao)

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:39:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Với tình tiết đó thì bạn có thể phạm tội  chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có theo quy định tại Điều 250 BLHS.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:33:06 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Mời bạn tham khảo nội dung tư vấn của luật sư Lê Thư ở trên.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:26:41 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                  1.  Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì quy định bắt buộc con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho người mẹ trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn trừ trường hợp các bên có thỏa thuận. Do vậy nếu người vợ được giao con nhưng không trực tiếp chăm sóc mà giao cho ông bà ngoại, anh chị em, hoặc thuê người chăm sóc... thì người chồng cũng chưa thể làm gì được khi con chưa đủ 36 tháng tuổi. Nếu người vợ chăm sóc con không tốt, không tạo điều kiện cho con phát triển về thể chất, tinh thần thì sau khi con đủ 36 tháng tuổi, người chồng có thể yêu cầu thay đổi người nuôi con sau khi ly hôn.

                2. Luật hôn nhân quy định: Nếu con chưa đủ 12 tháng tuổi thì người chồng không được nộp đơn xin ly hôn, trừ trường hợp vợ đồng ý. Người chồng chỉ được giành quyền nuôi con nếu con đủ 36 tháng tuổi chứ không phải là 12 tháng tuổi như bạn nói.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:17:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                Hai vợ chồng bạn có thể đến Phòng/Văn phòng công chứng hoặc Văn phòng luật sư để lập văn bản thỏa thuận về tài sản có công chứng rồi nộp hồ sơ vào phòng TN&MT để đăng ký quyền sử dụng đất theo Văn bản đó. Thủ tục này cũng có thể gọi là nhập tài sản riêng thành tài sản chung vợ chồng.

                Bạn cần xuất trình CNMD, Hộ khẩu, GCN QSD đất, GCN đăng ký kết hôn để tiến hành các thủ tục trên.

  • Xem thêm     

    18/06/2012, 10:08:42 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

                    1. Tranh chấp di sản thừa kế của bà ngoại bạn.

                 Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định: " Thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

    a) Đối với trường hợp thừa kế mở trước ngày 1/7/1996, thì thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế được thực hiện theo quy định tại Điều 36 của Pháp lệnh Thừa kế năm 1990 và hướng dẫn tại Nghị quyết 02/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao "hướng dẫn áp dụng một số quy định của Pháp lệnh Thừa kế".

    Khi xác định thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế mà thời điểm mở thừa kế trước ngày 1/7/1991 và di sản là nhà ở thì thời gian từ ngày 1/7/1996 đến ngày 1/1/1999 không tính vào thời hiệu khởi kiện."

                     Như vậy theo quy định pháp luật trên thì với những người chết trước ngày 10/9/1990: đến ngày 10/9/2000 là hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với di sản là quyền sử dụng đất và đến ngày 10/3/2003 là hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản là nhà ở. Sau ngày 10/3/2003 có tranh chấp về thừa kế đối với di sản là nhà ở thì Tòa án cũng không thụ lý giải quyết trừ trường hợp tranh chấp về tài sản chung và có căn cứ để xác định di sản thừa kế đã trở thành tài sản chung.

                   Theo thông tin bạn nêu thì bà bạn đã chết trước năm 1990 nên thời hiệu khởi kiện về thừa kế đối với di sản là nhà ở của bà bạn kéo dài đến ngày 10/3/2003. Do vậy, nếu này cậu bạn có khởi kiện để tranh chấp di sản thừa kế của bà ngoại bạn cũng không được nữa. Phần di sản thừa kế của bà ngoại bạn sẽ do Dì bạn tiếp tục được quản lý, sử dụng.

                  2. Di sản thừa kế của ông bạn:

                    Thông tin nêu trên, bạn chưa nhắc đến ông bạn. Nếu nhà đất đó là tài sản chung của ông bà bạn thì bà bạn chỉ có quyền sở hữu 1/2, còn 1/2 tài sản là của ông ngoại bạn. Nếu ông ngoại bạn chết đã quá 10 năm thì hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Nếu còn thời hiệu khởi kiện thừa kế của ông ngoại bạn thì Cậu bạn cũng có thể khởi kiện để yêu cầu chia di sản thừa kế.

                  3. Chia tài sản chung:

                 Nếu nhà đất đó là tài sản chung của hộ gia đình hoặc là di sản của ông bà bạn để lại nhưng trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế, các thừa kế đã có văn bản xác nhận về thừa kế thì đến nay cậu bạn vẫn có thể yêu cầu chia tài sản chung có nguồn gốc từ di sản thừa kế. Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao:

    "Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

    a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

    a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

    a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

    a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

    b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản."

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 11:08:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                Với dự án phát triển kinh tế xã hội thì người sử dụng đất có thể thỏa thuận về mức đền bù quyền sử dụng đất với chủ đầu tư. Nếu việc đền bù không thỏa đáng mà UBND tỉnh và UBND huyện vẫn ra Quyết định thu hồi đất thì người sử dụng đất có thể khiếu kiện theo quy định pháp luật. Trong các đơn thư khiếu kiện, kiến nghị đó, người dân cũng có thể nêu ra những sai phạm của chủ đầu tư để yêu cầu xử lý theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 11:00:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Hiện nay, pháp luật Việt Nam không cấm giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất giữa cá nhân với cá nhân. Điều 342 BLDS 2005 quy định: thế chấp là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia. Bên nhận bảo đảm ở đây có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 cũng giải thích bên nhận bảo đảm gồm: bên nhận cầm cố, bên nhận thế chấp, bên nhận đặt cọc, bên nhận ký cược, bên nhận bảo lãnh, tổ chức tín dụng trong trường hợp tín chấp, bên có quyền được ngân hàng thanh toán trong trường hợp ký quỹ.

              Như vậy trừ trường hợp tín chấp, bên nhận bảo đảm phải là tổ chức tín dụng thì các trường hợp khác, bên nhận bảo đảm vẫn có thể là cá nhân. Hơn nữa, Mẫu Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ban hành kèm theo Thông tư liên tịch số 20/2011/TTLT-BTP-BTNMT ngày 18/11/2011, phần kê khai về bên nhận thế chấp có ghi rõ: “Tên đầy đủ của tổ chức, cá nhân”; phần hướng dẫn kê khai cũng nói đến bên nhận thế chấp là cá nhân.

              Đối chiếu với những quy định trên thì giao dịch bảo đảm có đối tượng là quyền sử dụng đất hoàn toàn có thể thực hiện giữa cá nhân với cá nhân. Việc đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo trình tự, thủ tục quy định tại Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ngày 23/7/2010 về đăng ký giao dịch bảo đảm.

              Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm bằng quyền sử dụng đất gồm có:

    - Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm;

    - Hợp đồng bảo đảm hoặc hợp đồng bảo đảm có công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật;

    - Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc các Giấy chứng nhận đã cấp qua các thời kỳ;

    - Bản sao có chứng thực giấy tờ chứng minh tư cách pháp lý của người yêu cầu đăng ký; trường hợp người yêu cầu đăng ký là người được ủy quyền thì phải có Văn bản ủy quyền.

                 Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất sẽ ghi nội dung đăng ký giao dịch bảo đảm vào Giấy chứng nhận, Sổ Địa chính, Sổ theo dõi biến động đất đai theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 10:48:34 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               1. Theo thông tin bạn nêu thì trường hợp của bạn không thể thuận tình ly hôn được do có tranh chấp về tài sản. Nếu vợ chồng bạn đã ký Biên bản hòa giải thành (đang chờ trong thời hạn 7 ngày để nhận quyết định) thì bạn có thể gửi đơn đề nghị Tòa án hủy biên bản hòa giải thành để giải quyết  tranh chấp về tài sản chung vợ chồng.

                2. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định về tài sản riêng như sau:

    "Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng

    1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.

    Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

    2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung."

               Như vậy, với quy định trên thì có thể xác định nhẫn, dây truyền là tư trang cá nhân của bạn và là tài sản riêng của bạn. Hơn nữa, tài sản đó cũng không còn (bạn đã bán để mua xe) nên việc chồng bạn đòi tài sản đó là không có căn cứ. Việc chồng bạn nhắn tin đe dọa, xúc phạm bạn như vậy là vi phạm pháp luật. Bạn có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc chồng bạn dừng ngay hành vi đó hoặc bạn cũng có thể trình báo sự việc đó với công an để được xem xét, giải quyết.

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 10:37:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Theo thông tin bạn nêu thì hai bên đều có lỗi, lỗi của bạn là "không làm chủ tốc độ, thiếu quan sát mặt đường"... Trong trường hợp này hai bên nên thương lượng. Nếu đưa ra pháp luật thì có thể người lái xe của bên kia (ông Chồng) cũng có thể bị khởi tố theo Điều 202 BLHS. Theo quy định pháp luật thì "người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" có lỗi gây thiệt hại sức khỏe cho người khác từ 31% trở lên là có thể bị khởi tố hình sự.

    - Trong trường hợp hai bên cùng có lỗi thì mỗi bên phải chịu trách nhiệm trong phạm vi, mức độ lỗi của mình. Người chồng đó cũng phải có trách nhiệm với vợ, con anh ta do hành vi trái pháp luật của anh ta gây ra.

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 10:24:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              1. Theo thông tin bạn nêu thì bạn có thể bị khởi tố về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS.
              2. Theo quy định tại điều 64 Bộ luật hình sự, thì những người được đương nhiên xoá án tích gồm: Người được miễn hình phạt; Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI (Các tội xâm phạm an ninh quốc gia) và Chương XXIV (Các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh), nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
     
    - Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo.
     
    - Ba năm trong trường hợp hình phạt tù đến ba năm.
     
    - Năm năm trong trường hợp hình phạt tù từ trên ba năm đến mười năm.
     
    - Bảy năm trong trường hợp hình phạt tù từ trên mười lăm năm.
     
    Khi đã đủ điều kiện để được xoá án tích đã nêu ở trên, thì người bị kết án đương nhiên được xoá án tích (tức là coi như chưa phạm tội). Toà án không phải cấp giấy chứng nhận cho tất cả những người được đương nhiên xoá án tích mà chỉ cấp giấy chứng nhận khi những người được đương nhiên xoá án tích có đơn yêu cầu.
     
    Người muốn được cấp giấy chứng nhận xoá án tích phải nộp đơn tại Toà án sơ thẩm đã xét xử vụ án mà mình là người bị kết án. Nếu Toà án đó đã giải thể thì nộp đơn tại Toà án nhân dân cấp tỉnh.
     
    Kèm theo đơn người muốn được cấp giấy chứng nhận xoá án tích phải có các giấy tờ gồm:
     
    - Giấy chứng nhận của Công an cấp huyện về việc người xin cấp giấy chứng nhận xoá án tích không phạm tội mới trong thời gian mà Pháp luật quy định để được xoá án tích.
     
    - Trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù thì tùy từng trường hợp phải có giấy trả tự do sau khi hết hạn tù; giấy chứng nhận của Công an cấp huyện hoặc cơ quan, đơn vị nơi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt cải tạo không giam giữ; quyết định của toà án giảm chấp hành hình phạt.
     
    Nếu người bị kết án còn bị áp dụng hình phạt bổ sung, tùy từng trường hợp còn phải có các giấy tờ như: giấy chứng nhận của UBND cấp xã nơi người bị kết án chấp hành xong hình phạt quản chế hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú, biên lai nộp tiền phạt...
     
    - Nếu bản án có quyết định bồi thường, thì người bị kết án phải nộp những giấy tờ chứng minh đã bồi thường xong.
     
    - Biên lai nộp án phí.

                  Như vậy, mức án cho tội tàng trữ trái phép chất ma túy của bạn là dưới 3 năm, bạn chấp hành xong án là tháng 11/2010 nên đến tháng 11/2013 thì bạn mới được xóa án tích. Nếu bạn bị khởi tố trong vụ án này thì trường hợp của bạn là tái phạm và không có cơ hội được hưởng án treo.
  • Xem thêm     

    17/06/2012, 10:09:15 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Theo quy định của ngành công an thì trước khi quyết định tiến tới hôn nhân thì cán bộ, chiến sĩ công an phải báo với tổ chức để điều tra, xác minh lý lịch... Việc anh công an kia chung sống với bạn, có thai nhưng không quan tâm, không trách nhiệm với bạn và đứa con do bạn sinh ra là một hành vi đáng lên án.

                Nếu sự việc không được anh ta và gia đình giải quyết thỏa đáng, bạn có đơn tố cáo hành vi đó với thủ trưởng cơ quan của anh ta thì nhiều khả năng anh ta sẽ bị kỷ luật, thậm chí có thể bị "đuổi" khỏi ngành bởi lối sống buông thả, thiếu trách nhiệm vi phạm đạo đức, tác phong đó...

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 09:59:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

               1. Theo thông tin bạn nêu thì Cậu bạn qua đời không để lại di chúc nên di sản của Cậu bạn sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS (Cha, mẹ, vợ và các con của Cậu bạn). Mặc dù Mợ bạn đã chung sống với người khác nhưng trước khi Cậu bạn qua đời hai người chưa ly hôn nên Mợ bạn vẫn được quyền thừa kế di sản do Cậu bạn để lại.

               2. Theo quy định của pháp luật thì nhà đất đứng tên Cậu bạn và những tài sản, cây trồng trên đất mặc nhiên xác định là tài sản của Cậu bạn hoặc tài sản chung của vợ chồng Cậu bạn. Nếu Dì út bạn cho rằng Dì và Cậu bạn là đồng sở hữu thửa đất và cây trồng trên đất đó thì Dì bạn phải tìm chứng cứ, để chứng minh điều đó (Văn bản thỏa thuận, di chúc của ông bà ngoại bạn... hoặc các văn bản, tài liệu khác) thì Tòa án mới có căn cứ giải quyết.

              3. Nếu sau khi Cậu bạn qua đời mà Dì bạn quản lý di sản, cúng dỗ thì khi chia thừa kế, Dì bạn cũng sẽ được xét một phần công sức đối với sự việc đó.

  • Xem thêm     

    17/06/2012, 09:41:00 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               1. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì cả vợ và chồng đều có quyền nộp đơn đơn phương ly hôn. Nếu trình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thì Tòa án sẽ căn cứ vào quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000.NQ-HĐTP để giải quyết cho ly hôn. Với sự việc của bạn: Vợ bạn đã bỏ nhà đi 5 tháng, hai vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc tới nhau... nên có thể xác định là hôn nhân trầm trọng. Nếu một trong hai bên có đơn xin ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết cho người đó được ly hôn.

               2. Nếu có tranh chấp về con thì Tòa án sẽ căn cứ vào điều kiện của hai bên (học vấn, văn hóa, thu nhập, tình cảm, khả năng chăm sóc và nuôi dạy con...) để quyết định giao con cho một trong hai bên trực tiếp nuôi dưỡng. Do vậy, khi Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, bạn phải chứng minh được ưu thế hơn vợ bạn trên các tiêu chí trên thì bạn mới được nuôi con.

              3. Nếu bạn giữ các giấy tờ về hộ khẩu, giấy chứng nhận kết hôn thì cũng là khó khăn cho vợ bạn khi thực hiện thủ tục ly hôn. Tuy nhiên, vợ bạn có thể xin xác nhận các thông tin về hôn nhân, hộ khẩu tại Thái Bình và gửi đơn xin ly hôn bạn. Hiện nay, bạn chưa biết được địa chỉ, nơi cư trú của vợ bạn nên bạn chưa thể nộp đơn ly hôn. Nếu bạn đơn phương ly hôn thì Tòa án nơi vợ bạn cư trú sẽ có thẩm quyền giải quyết. Do vậy, bạn cần phải tìm hiểu thông tin về địa chỉ của vợ bạn để đủ điều kiện nộp đơn xin ly hôn.

  • Xem thêm     

    15/06/2012, 11:14:54 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    1. Bạn phải về nơi có đăng ký hộ khẩu thường trú để xác nhận lý lịch;
    2. Nếu bạn có hợp đồng thuê nhà, mượn nhà... (có chỗ ở hợp pháp) thì bạn có thể đăng ký KT3. Bạn có thể tham khảo thêm thông tin của Luật cư trú hiệu lực năm 2007 và các văn bản hướng dẫn để biết thêm thông tin chia tiết.
  • Xem thêm     

    15/06/2012, 11:07:08 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất mà ông bà bạn và gia đình bạn đang sử dụng là tài sản của ông bà bạn (GCN QSD đất đứng tên ông bạn). Nếu ông bà bạn qua đời mà không để lại di chúc thì di sản đó sẽ thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của ông bà bạn theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS, trong đó chú bạn và cô bạn cũng có quyền thừa kế như bố bạn. Thời hiệu "khởi kiện" tranh chấp thừa kế (chứ không phải "khởi tố") là 10 năm kể từ ngày người có di sản chết. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế của ông bạn (1/2) nhà đất là 10 năm (2011=2021), thời hiệu khởi kiện về thừa kế của bà bạn cũng là 10 năm kể từ ngày bà bạn qua đời. Nếu hết thời hiệu trên mà không có tran chấp thì người đang sử dụng di sản được quyền tiếp tục sử dụng di sản.
               Nay bà bạn còn sống nên nếu bà bạn lập di chúc (hợp pháp) để lại cho bố bạn 1/2 giá trị nhà đất đó thì phần tài sản đó sẽ thuộc về gia đình bạn, các cô chú sẽ không đòi chia thừa kế đối với phần di sản của bà bạn được nữa. Còn phần di sản của ông bạn nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia đều cho các thừa kế vì ông bạn không có di chúc.
  • Xem thêm     

    15/06/2012, 10:43:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              1.  Việc ký giáp danh không phải là thủ tục bắt buộc quan trọng. Nếu không có biên bản cam kết không tranh chấp về mốc giới với các hộ liền kề nhưng diện tích cấp GCN so với diện tích trong hồ sơ địa chính và diện tích thực địa bằng nhau thì GCN QSD đất đó vẫn không bị chỉnh lý về diện tích. Nếu có biên bản ký giáp danh nhưng sau này tranh chấp, tòa án xác định diện tích, kích thước thửa đất trong GCN cấp không đúng thì GCN đó vẫn bị chỉnh lý.
              2. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì UBND cấp xã không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai mà chỉ có thẩm quyền hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003. Việc các đương sự có xuất trình đầy đủ chứng cứ ở giai đoạn UBND xã hòa giải hay không vẫn chưa thể xác định được ai thắng, ai thua trong vụ việc tranh chấp đó. Chứng cứ, tài liệu phải xuất trình ở giai đoạn UBND huyện hoặc TAND huyện giải quyết thì mới bắt đầu có giá trị chứng minh quyền sở hữu tài sản. Theo quy định của pháp luật thì bản chính các văn bản hoặc bản sao từ sổ gốc, sao từ bản chính mới có giá trị chứng minh, còn bản pho to không có giá trị pháp lý.