Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    09/10/2011, 04:43:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào te0_baby!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Phải xem lại việc chia nhà đất để làm Giấy chứng nhận  cho bố bạn có hợp pháp không? Nếu việc cấp Giấy chứng nhận cho bố bạn đã hợp pháp theo quy định pháp luật thì các cô không thể đòi lại được.

    Nhà đất có nguồn gốc của ông bà nội bạn, khi chia đất cho các con và tiến hành thủ tục xin cấp giấy chứng nhận thì chắc chắn phải có giấy chia đất hoặc cho đất của ông bà bạn thì bố bạn mới được cấp GCN. Do vậy để biết việc cấp GCN của bố bạn có hợp pháp hay không, gia đình bạn cần xin sao chụp bộ hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận của bố bạn xem căn cứ xác lập quyền sở hữu tài sản của bố bạn là gì? Có hợp pháp không?

    2. Di chúc miệng mà ông bạn thể hiện là không có hiệu lực pháp luật mà chỉ có giấy chia đất hoặc biên bản phân chia đất khi làm Sổ mới có thể là văn bản có hiệu lực (nếu tuân thủ các quy định pháp luật về nội dung và hình thức).

    3. Về nguyên tắc thừa kế thì không phân biệt con trai, con gái, con nuôi, con đẻ, con trong giá thú, con ngoài giá thú. Nhưng trong trường hợp của gia đình bạn nếu Sổ của bố bạn đã được cấp đúng pháp luật thì ông bà bạn không còn di sản để chia thừa kế.

    4. Bà bạn còn sống nên chỉ có quyền đòi lại quyền sử dụng đất của bố bạn nếu việc cấp GCN của bố bạn là không hợp pháp.

    5. Nay bố bạn đã được cấp GCN và GCN vẫn đang có hiệu lực pháp luật nên bố mẹ bạn hoàn toàn có quyền định đoạt nhà đất đó mà không cần phải có bất cứ ý kiến nào của những người khác.

    Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí!

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    09/10/2011, 04:08:01 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào nguyentanba!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    Điều 275 BLDS quy định về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như sau: Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng một cách thuận tiện và hợp lý nhất. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản đó một khoản tiền theo thỏa thuận. Diện tích, kích thước lối đi do các bên thỏa thuận đảm bảo cho việc sử dụng lối đi thuận tiện cho tất cả các bên, nếu không thỏa thuận được thì cơ quan Nhà nước sẽ quyết định…

    Do vậy, nếu thửa đất của gia đình bạn không có lối đi ra đường công cộng thì chủ đất buộc phải dành một lối đi hợp lý cho gia đình bạn theo quy định tại Điều 275 BLDS nêu trên.

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    09/10/2011, 03:58:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào Tanhung123!

    Tôi có ý kiến về trường hợp của gia đình bạn như sau:

    Theo các thông tin mà bạn đã nêu ra thì con hẻm đó trước đây có nguồn gốc nằm trong thửa đất của ông Ba. Tuy nhiên, khoảng 40 năm trở lại đây gia đình ông Ba đã tự động để ra một phần đất làm lối đi (hẻm ngày nay). Khi xin cấp GCN QSD đất năm 2004 gia đình ông Ba cũng không kê khai, trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng không thể hiện hẻm đó là lối đi riêng của gia đình ông Ba. Trên bản đồ địa chính đã thể hiện lối đi đó là lối đi công cộng..

    Với những thông tin mà bạn cung cấp ở trên có đủ căn cứ pháp lý để khẳng định lối đi đang tranh chấp là ngõ đi chung (Giấy chứng nhận của gia đình ông Ba và Hồ sơ địa chính) do vậy gia đình bạn cư yên tâm.

    Không có văn bản pháp luật nào quy định ngõ đi 30 năm thì thành ngõ đi chung, cũng không có văn bản nào quy định là khi bán nhà đất, chủ nhà phải để lối đi rộng 2m cho người mua. Chỉ có một số quy định pháp luật sau đây (Về lý):

    Điều 247 Bộ luật dân sự quy định về Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu, theo đó: người chiếm hữu, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó kể từ thời điểm chiếm hữu (trừ trường hợp tài sản đó thuộc sở hữu Nhà nước).

    Điều luật này không được áp dụng để công nhận quyền sử dụng đất cho gia đình bạn, cũng không phải là căn cứ duy nhất để xác định lối đi đó là lối đi chung. Nhưng việc gia đình ông Ba đã không sử dụng ngõ đi đó 40 năm nay, khi kê khai xin cấp GCN cũng không kê khai hoặc có kê khai cũng không được cấp GCN. Nay hồ sơ địa chính thể hiện là ngõ đi chung... là đủ căn cứ để xác định việc sử dụng ngõ đi của gia đình bạn là hợp pháp.

    Hơn nữa, Điều 275 BLDS quy định về quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như sau: Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng một cách thuận tiện và hợp lý nhất. Diện tích, kích thước lối đi do các bên thỏa thuận đảm bảo cho việc sử dụng lối đi thuận tiện cho tất cả các bên, nếu không thỏa thuận được thì cơ quan Nhà nước sẽ quyết định…

    Như vây, kể cả trong trường hợp nhà đất của gia đình bạn không có lối đi thì gia đình ông Ba cũng buộc phải dành một lối đi thuận tiện cho gia đình bạn để đi ra đường công cộng.

    Xét về tình: Gia đình bạn mua nhà đất của gia đình ông Ba để sử dụng làm nhà ở nên phải có lối đi lại chứ không thể bắt gia đình bạn “bay” được. Nếu thỏa thuận mua nhà đất mà không có lối đi thì ai dám mua? kể cả cho không nhiều người cũng không lấy, chưa nói là mua! Thời điểm gia đình bạn mua nhà, Nhà nước cấm chuyển nhượng quyền sử dụng đất (từ năm 1980 đến năm 1993) nên các bên mới không thỏa thuận về lối đi… Thực tế gia đình bạn đã sử dụng mấy chục năm nay không có ai tranh chấp gì.  Do vậy gia đình bạn có đủ “tình” và “lý” để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình mình. Chúc gia đình bạn thành công!

  • Xem thêm     

    09/10/2011, 02:45:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của bạn!
           Thực tế bạn bị rơi vào thế khó rồi. Về mặt lý thuyết thì: Mọi loại đất đều có thể chuyển mục đích sử dụng nếu chủ sử dụng có nhu cầu và việc chuyển mục đích sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch nhưng thực tế lại không dễ dàng chút nào. Rất nhiều người đang nghĩ rằng đất VƯỜN AO liền kề với thửa đất ở (đã có sổ, thời hạn sử dụng lâu dài) nếu muốn chuyển sang đất ở thì chỉ cần tiến hành thủ tục và nộp 50% giá trị tiền chênh lệch giữa hai loại đất là "xong" nhưng thực tế lại không "xong"! Ở HN, UBND thành phố Hà Nội ban hành riêng một Quyết định (Quyết định 121/2009/QĐ-UBND thay thế Quyết định số 46/2008.QĐ-UBND) quy định về thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất vườn ao liền kề và đất nông nghiệp nằm xen kẽ trong khu dân cư sang thành đất ở nhưng thực tế gần như chưa có hộ gia đình, cá nhân nào được hưởng "lợi" từ Quyết định này. Các địa phương khác cũng tương tự. Thông thường chỉ có việc chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp thành đất phi nông nghiệp cho các dự án...
          Thực tế giao dịch đó của bạn không thể thực hiện được nếu diện tích đất nông nghiệp không đủ tách thửa. Do vậy, bạn đừng hi vọng vào việc chuyển mục đích sử dụng đất để tách thửa như đã thỏa thuận. Hãy thỏa thuận thanh lý hợp đồng là tốt nhất tránh bị lợi dụng vốn.
          Thỏa thuận của bạn trong việc chuyển nhượng QSD đất nêu trên là VÔ HIỆU bởi công việc không thể thực hiện được, thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất không đủ hạn mức tách thửa là vi phạm pháp luật. Tại khoản 2 Điều 17 Nghị định 84/2007/NĐ-CP, ngày 25-5-2007, của Chính phủ quy định, khi chuyển nhượng QSDĐ, nếu có tách thửa thì diện tích tối thiểu sau khi tách thửa không được nhỏ hơn diện tích tối thiểu do địa phương quy định về đất ở, đất nông nghiệp…, Do vậy, nếu có tranh chấp xảy ra thì Tòa án sẽ tuyên bố giao dịch vô hiệu và yêu cầu các bên phải hoàn trả cho nhau những gì đã nhận, bên nào có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên kia (Điều 137 BLDS).
          Theo nhận định của tôi trong vụ việc này thì hai bên cùng có lỗi tuy nhiên mức độ lỗi thế nào thì còn phụ thuộc vào chứng cứ và trình bày của các bên. Do đó, bạn nên nói rõ sự việc với bên bán để chấm dứt hợp đồng và nhận lại số tiền đã giao. Trong trường hợp bên bán không chịu trả tiền thì bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu để buộc bên bán phải trả lại tiền cho bạn.
           Nếu muốn được tư vấn cụ thể và chính xác hơn, bạn có thể pho to các giấy tờ về giao dịch này và gửi cho tôi theo đường bưu điện. Sau khi xem xét giấy tờ, tôi sẽ có "đáp án" chính xác và chi tiết cho bạn!
          Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    09/10/2011, 12:06:25 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn Rubybjbj!

    Trường hợp thửa đất của chồng bạn Luật không quy định rõ ràng do vậy sẽ có hai quan điểm khác nhau về tài sản chung và tài sản riêng, cụ thể như sau:

    Quan điểm 1: Xác định là tài sản chung bởi chồng bạn đã dùng tiền lương trong trong thời kỳ hôn nhân để thanh toán cho số tiền chuyển nhượng đó. Do vậy, nguồn gốc tài sản đó được tạo ra từ thu nhập hợp pháp của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân (Khoản 1, Điều 27 Luật HN&GĐ).

    Nếu giao dịch thực hiện trước khi kết hôn nhưng giao dịch hoàn tất sau khi kết hôn, sau khi kết hôn chồng bạn mới được cấp GCN hoặc đến thời điểm ly hôn giấy chứng nhận được đứng tên hai vợ chồng thì tôi đồng ý với Quan điểm này: Tài sản chung (Tôi vừa tham gia một vụ án tương tự).

    Quan điểm 2: Xác định là tài sản riêng của chồng bạn bởi các lý do sau: Theo quy định của BLDS và Luật đất đai thì HĐCNQSD đất có hiệu lực từ khi đăng ký. Nếu thủ tục chuyển nhượng đã hoàn tất trước thời điểm kết hôn, chồng bạn đã được cấp giấy chứng nhận trước thời điểm kết hôn thì đó là tài sản riêng của chồng bạn "có trước khi kết hôn" theo quy định tại khoản 1, Điều 32 Luật HN&GĐ. Quyền sở hữu tài sản được xác lập trước khi kết hôn. Việc dùng tiền lương trong thời kỳ hôn nhân để thanh toán chỉ là TRẢ NỢ chứ không phải là số tiền để mua tài sản. Đồng thời Tòa án có thể chỉ chấp nhận cho bạn được hưởng một phần giá trị trong khoản tiền lương mà chồng bạn đã bỏ ra trong thời kỳ hôn nhân. Chồng bạn dùng tài sản chung để thực hiện nghĩa vụ riêng thì chồng bạn chỉ phát sinh nghĩa vụ đối với phần tài sản chung đó thôi, còn tài sản riêng vẫn là riêng.

    Thực tiễn xét xử của Tòa án rất phức tạp, ("DÂN SỰ SÁNG ĐÚNG, CHIỀU SAI, ĐẾN MAI LẠI ĐÚNG" bởi pháp luật chỉ quy định chung chung còn thực tế lại muôn hình, vạn trạng, quan điểm giải quyết vụ án của các Thẩm phán lại có nhiều khác nhau nên đôi khi TÒA XỬ THẾ NÀO CŨNG ĐÚNG!) Tòa án tuyên là tài sản chung hay tài sản riêng thì đều có cách giải thích của họ.  Nhưng tôi chắc chắn là trong trường hợp này bạn sẽ được chia một phần, còn phần là bao nhiêu thì không thể biết trước được.

    Bạn có thể tham khảo các quy định pháp luật sau đây của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (Tòa án nhân dân tối cao cũng đã có nhiều tham luận, hướng dẫn thống nhất giải quyết các vụ án kiểu này, bạn có thể tìm đọc các Báo cáo tổng kết ngành để biết thêm cái nhìn của Nhà Tòa):

    Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa  thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa  thuận.

    Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

    2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

    Điều 32. Tài sản riêng của vợ, chồng

    1. Vợ, chồng có quyền có tài sản riêng.

    Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân.

    2. Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.
  • Xem thêm     

    09/10/2011, 11:12:43 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Bạn chưa nói ró là thửa 2000m2 đó đã được cấp Sổ hay chưa? Nếu thửa đất đó bị thu hồi thì người có tên trong Sổ hoặc người có các giấy tờ về quyền sử dụng  đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai sẽ được bồi thường, đền bù, hỗ trợ và tái định cư (nếu có). Còn bạn tuy sống trên đất đó, làm nhà nhưng không có giấy tờ gì thì có thể bạn chỉ được bồi thường tài sản trên đất, còn quyền sử dụng đất thì bạn chưa đủ điều kiện để được bồi thường. Tuy nhiên nếu bạn đã tách hộ khẩu thì sẽ thuận lợi khi thực hiện thủ tục tái định cư. Gia đình bạn có thể được hai suất tái định cư vì có hai hộ khẩu.
  • Xem thêm     

    09/10/2011, 06:38:30 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:
                Bà bạn có quyền lấy lại 1/2 nhà đất mà bố bạn đang quản lý bởi các lý do sau:
               1. Nhà đất đó đã có Giấy tờ sở hữu do chế độ cũ (Pháp) cấp là BẰNG KHOÁN ĐIỀN THỔ đứng tên ông bạn. Theo Luật đất đai 2003 thì đất đó là loại đất có giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai và giấy tờ đứng tên ông bạn.
                2. Việc ủy quyền không phải là căn cứ pháp lý làm thay đổi quyền sở hữu, ủy quyền không phải là chuyển quyền sở hữu tài sản nên tài sản vẫn là của ông bà bạn.
                3. Theo quy định tại Điều 15, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 có hiệu lực đến ngày 03/01/1987 thì: VỢ CHỒNG CÓ QUYỀN NGANG NHAU TRONG VIỆC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN CÓ TRƯỚC VÀ SAU KHI CƯỚI, không quy định tài sản riêng vợ chồng. Do vậy nếu quan hệ hôn nhân của ông bà bạn hình thành trước ngày 03/01/1987 thì nhà đất đó là tài sản chung của ông bạn và bà bạn.
               Hiện nay, phần di sản của ông bạn nếu còn thời hiệu yêu cầu chia thừa kế (10 năm) và có tranh chấp thì một trong các thừa kế có quyền khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế. trong trường hợp này 1/2 nhà đất là di sản của ông nội bạn sẽ được chia cho vợ và các con của ông bạn. Thực tế bố bạn có thể được chia 2 phần trong khối di sản của ông bạn(1 phần là thừa kế, 1 phần là công duy trì, tu tạo di sản).
               Nếu đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của ông bạn theo quy định pháp luật thì di sản của ông bạn sẽ do bố bạn tiếp tục quản lý và bà bạn được đòi lại 1/2 nhà đất đó.
             Thân ái! Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp!
  • Xem thêm     

    09/10/2011, 05:22:33 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Nếu bạn không thể tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình thì hãy liên hệ với Luật sư Nguyễn Nhật Tuấn hoặc một trong các Luật sư khác ở Tp HCM để được trợ giúp!
  • Xem thêm     

    08/10/2011, 08:21:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Chỉ có đất thổ cư thì bạn mới được phép xây nhà ở. Để được Luật sư tư vấn cụ thể, chính xác những thủ tục pháp lý cần thiết, bạn cần cung cấp các thông tin sau đây:
            - Thửa đất đó ở địa phương nào (tỉnh)? để biết nghĩa vụ tài chính khi thực hiện thủ tục.
            - Nguồn gốc thửa đất như thế nào? Thửa đất đó đã được cấp GCN chưa? Nếu đã được cấp thì giấy đó đứng tên ai? Hộ gia đình hay cá nhân?
             - Mẹ bạn còn sống không? Nếu đất cấp cho Hộ gia đình thì gồm những ai?

    - Đất có tranh chấp không? Có phù hợp quy hoạch không?
          Nếu thửa đất chưa được cấp GCN thì phải xin cấp GCn thì mới tách thửa được. Nếu thửa đất đó là tài sản chung của cha bạn với mẹ bạn hoặc chung với hộ gia đình thì cha bạn chỉ có quyền định đoạt trong phạm vi đất của cha bạn thôi. Sau khi có GCn bạn phải tiến hành thủ tục: Do vẽ sơ đồ kỹ thuật thửa đất - Xin công văn tách thửa (một số địa phương) - Lập hợp đồng tặng cho - Nộp hồ sơ đến TN&MT để sang tên.
           Tuy nhiên, nhiều trường hợp không đơn giản như thế. Để được tư vấn cụ thể, bạn cần cung cấp thêm thông tin nhé!

  • Xem thêm     

    08/10/2011, 06:15:13 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


     Chào bạn!

    Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Khoản 1, Điều 498 BLDS quy định bên cho thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong các trường hợp sau:

    -                      Bên thuê không trả tiền thuê nhà trong 3 tháng liên tục mà không có lý do chính đáng;

    -                      Sử dụng nhà không đúng mục đích thuê;

    -                      Cố ý làm hư hỏng nhà nghiêm trọng;

    -                      Sửa chữa hoặc đổi nhà cho người khác thuê lại mà không được sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê;

    -                      Làm mất trật tự công cộng nhiều lần và ảnh hưởng đến sinh hoạt bình thường của những người xung quanh;

    -                      Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường.

    Như vậy, bên thuê nhà chỉ được đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà trong các trường hợp trên. Nếu bên cho thuê đơn phương chấm dứt hợp đồng ngoài trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 498 BLDS là vi phạm pháp luật, nếu gây thiệt hại cho Bên cho thuê thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra.

    2. Khoản 4, Điều 496 BLDS quy định như sau: Bên thuê nhà “ được tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận với bên cho thuê, trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu nhà”.

    Như vậy, nếu thay đổi chủ sở hữu nhà thì bên thuê nhà vẫn tiếp tục được thực hiện hợp đồng thuê nhà như đã thỏa thuận. Ngoài ra pháp luật còn quy định: Việc chuyển quyền sở hữu nhà đối với nhà đang cho thuê thì chủ nhà phải có trách nhiệm thông báo và dành quyền ưu tiên mua nhà cho người đang thuê. Nếu người thuê không mua thì mới được bán cho người khác. Người mua nhà có nghĩa vụ tôn trọng và thực hiện hợp đồng với người thuê nhà đã ký kết với chủ cũ.

    Tóm lại, việc thay đổi chủ sở hữu nhà ở trong thời gian thuê nhà không phải là căn cứ cho bên cho thuê đơn phương chấm dứt hợp đồng thuê nhà. Trong trường hợp căn nhà trên thay đổi chủ sở hữu thì cơ quan bạn vẫn được quyền thuê tiếp theo thỏa thuận tại hợp đồng. Do vậy, bạn cứ yên tâm!

    Thân ái!

  • Xem thêm     

    08/10/2011, 05:39:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


             Bạn vẫn còn hộ khẩu ở VN chứng tỏ bạn vẫn mang Quốc tịch Việt Nam nên bạn có thể đứng tên chủ sở hữu nhà theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 126 Luật Nhà ở nêu trên.
    Thân ái!
  • Xem thêm     

    08/10/2011, 04:40:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Bạn cần xem lại các quy định pháp luật có liên quan để hiểu sự việc rõ hơn
  • Xem thêm     

    08/10/2011, 04:38:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Trước hết, muốn xác định hành vi gây tại nạn giao thông của cậu bé kia có đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS hay không thì gia đình cần cho bà cụ đi Giám định thương tật. Nếu tỷ lệ thương tật của bà cụ từ 31% trở  lên thì cậu bé có thể phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, cậu bé đó mới 15 tuổi, là trẻ Chưa thành niên nên khi áp dụng các quy định của BLHS cũng có những nét đặc thù so với người thành niên.

    2. Việc bồi thường thiệt hại của cậu bé kia do người giám hộ (bố mẹ…) thực hiện theo quy định của pháp luật theo các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

    3. Trẻ vị thành niên là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất và tinh thần do vậy dễ mắc sai lầm, phạm pháp. Do vậy, trong vụ việc này nếu thương tật của bà cụ không quá lớn thì hai bên nên hòa giải để bồi thường dân sự như hướng dẫn của cán bộ công an.

    4. Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây của pháp luật để đối chiếu với thực tế vụ việc đó thì sẽ biết kết quả:

    TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

    Điều 202 BLHS quy định về tội Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ như sau:

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”.

                      Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự được hướng dẫn tại Nghị quyết02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao như sau:

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    a. Làm chết một người;

    b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.”.

                 BLHS quy định đặc thù đối với Người chưa thành niên phạm tội như sau:

    Điều 68. Áp dụng Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội

    Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này.

    Điều 69. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội

    1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.

    Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

    2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.

    3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

    4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này.

    5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.

    Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi.

    Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.

    6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

    Điều 70. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

    1. Đối với người chưa thành niên phạm tội, Toà án có thể quyết định áp dụng một trong các biện pháp tư pháp có tính giáo dục, phòng ngừa sau đây:

    a) Giáo dục tại xã, phường, thị trấn;

    b) Đưa vào trường giáo dưỡng.

    2. Toà án có thể áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng.

    Người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn phải chấp hành đầy đủ những nghĩa vụ về học tập, lao động, tuân theo pháp luật dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền xã, phường, thị trấn và tổ chức xã hội được Toà án giao trách nhiệm.

    3. Toà án có thể áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ một năm đến hai năm đối với người chưa thành niên phạm tội, nếu thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa người đó vào một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ.

    4. Nếu người được giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc người được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành một phần hai thời hạn do Toà án quyết định và có nhiều tiến bộ, thì theo đề nghị của tổ chức, cơ quan, nhà trường được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục, Toà án có thể quyết định chấm dứt thời hạn giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc thời hạn ở trường giáo dưỡng.

    Điều 71. Các hình phạt được áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội

    Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm:

    1. Cảnh cáo;

    2. Phạt tiền;

    3. Cải tạo không giam giữ;

    4. Tù có thời hạn.

    Điều 72. Phạt tiền

    Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng.

    Mức phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định.

    Điều 73. Cải tạo không giam giữ

    Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội, thì không khấu trừ thu nhập của người đó.

    Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người chưa thành niên phạm tội không quá một phần hai thời hạn mà điều luật quy định.

    Điều 74. Tù có thời hạn

    Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:

    1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

    2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định.

    Điều 75. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

    Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

    1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;

    2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.

    Điều 76. Giảm mức hình phạt đã tuyên

    1. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu có nhiều tiến bộ và đã chấp hành được một phần tư thời hạn, thì được Toà án xét giảm; riêng đối với hình phạt tù, mỗi lần có thể giảm đến bốn năm nhưng phải bảo đảm đã chấp hành ít nhất là hai phần năm mức hình phạt đã tuyên.

    2. Người chưa thành niên bị phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù, nếu lập công hoặc mắc bệnh hiểm nghèo, thì được xét giảm ngay và có thể được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.

    3. Người chưa thành niên bị phạt tiền nhưng bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra hoặc lập công lớn, thì theo đề nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát, Toà án có thể quyết định giảm hoặc miễn việc chấp hành phần tiền phạt còn lại.

    TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ (BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI  HỢP ĐỒNG DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ GÂY RA)

    Điều 606 Năng lực chịu trách nhiệm dân sự của cá nhân

    1. Ng­ười từ đủ mư­ời tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì phải tự bồi thư­ờng.

    2. Ngư­ời chư­a thành niên d­ưới m­ười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi th­ường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thư­ờng mà con ch­ưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi th­ường phần còn thiếu, trừ tr­ường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.

    Người từ đủ m­ười lăm tuổi đến chư­a đủ m­ười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản để bồi th­ường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của mình.

    Điều 632 BLDS bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phư­ơng tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi th­ường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho ng­ười khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi th­ường, trừ trư­ờng hợp có thoả thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, ng­ười đ­ược chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi th­ường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các tr­ường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của ng­ười bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong tr­ường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ tr­ường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong tr­ường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì ng­ười đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi th­ường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, ng­ười đ­ược chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi th­ường thiệt hại.

             Nghị Quyết03/2006/NQ-HĐTP ngày 18/7/2006 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn về Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định như sau:

    1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    (…)

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.

                Đó là các quy định pháp luật liên quan đến vụ việc người thành niên gây tai nạn giao thông. Hi vong sau khi xem xong các quy định pháp luật nêu trên gia đình cụ già có thể tìm ra cách giải quyết tốt nhất, có tình có lý để giải quyết vụ việc!

  • Xem thêm     

    08/10/2011, 10:11:11 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Nếu bạn tách một câu của tôi trong cả một đoạn văn ra để phân tích thì có thể dẫn đến hiểu sai nội dung của câu đó. Hơn nữa có thể bạn chưa hiểu ý nghĩa mà tôi đang muốn nhấn mạnh trong nội dung tư vấn đó. Nội dung tôi muốn nhấn mạnh là phân biệt giữa “Quyền sở hữu tài sản” và “Quyền sử dụng tài sản”. Nếu mua bán nhà là trao đổi QUYỀN SỞ HỮU NHÀ và TIỀN (Quyền sở hữu tài sản của người mua) còn CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT là sự trao đổi giữa QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN (tiền) với QDS ĐẤT (quyền sử dụng tài sản chứ không phải quyền sở hữu tài sản) – không phải là trao đổi quyền sở hữu hai loại tài sản với nhau nên không thể gọi là MUA BÁN ĐẤT mà chỉ có thể gọi là MUA BÁN NHÀ và CHUYỂN NHƯỢNG QSD ĐẤT.

    Còn đương nhiên trong Hợp đồng mua bán tài sản và Hợp đồng trao đổi tài sản có điểm khác nhau là: Trong hợp đồng mua bán thì bên bán và bên mua độc lập còn trong hợp đồng trao đổi tài sản thì bên bán của bên này là bên mua của bên kia và ngược lại (khoản 4, Điều 463 BLDS) nhưng mua bán tài sản và trao đổi tài sản đều có điểm chung có sự chuyển quyền sở hữu tài sản giữa các bên còn “mua bán” đất không được gọi là HỢP ĐỒNG MUA BÁN ĐẤT mà chỉ gọi là HĐ CHUYỂN NHƯỢNG QSD ĐẤT bởi không có việc chuyển quyền sở hữu tài sản mà chỉ là đổi quyền sở hữu tài sản (tiền) lấy quyền sử dụng tài sản (đất). Đó là điểm đặc biệt và đặc thù của đất đai…

  • Xem thêm     

    07/10/2011, 10:36:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    07/10/2011, 10:06:20 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn! Nếu cần tư vấn thêm, hãy liên hệ với tôi để được tư vấn miễn phí!
  • Xem thêm     

    07/10/2011, 10:04:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    Tôi trả lời câu hỏi của bác như sau:

    1. Về thủ tục tố tụng:

    Điều 31, Luật khiếu nại tố cáo quy định:

    “Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được có hành vi hành chính.

    Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.”

    Điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (có hiệu lực đến ngày 01/7/2011/0) quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính như sau

    “1. Thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác thì thời hiệu khởi kiện được quy định như sau:

    a) Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

    b) Đối với trường hợp quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

    c) Đối với trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 2 của Pháp lệnh này là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

    d) Đối với trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh này chậm nhất là năm ngày, trước ngày bầu cử, nhưng không đồng ý về cách giải quyết của cơ quan lập danh sách cử tri;

    đ) Đối với trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

    e) Đối với trường hợp quy định tại khoản 5 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, nhưng không đồng ý với  quyết định giải quyết đó;

    g) Đối với trường hợp quy định tại khoản 6 Điều 2 của Pháp lệnh này là ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh hoặc của Bộ trưởng Bộ Thương mại, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó;

    h) Đối với trường hợp quy định tại khoản 7 Điều 2 của Pháp lệnh này thì thời hiệu khởi kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên về trường hợp đó; nếu pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế không có quy định thời hiệu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai hay kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc lần hai.

    3. Đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn khởi kiện quy định tại các điểm a, b và đ khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm ngày.

    4. Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khởi kiện.”.

    Không biết trước đây gia đình bác đã thực hiện thủ tục khiếu nại hoặc khởi kiện vụ án hành chính theo các quy định trên không. Nếu gia đình bác không thực hiện khiếu kiện theo các quy định trên thì theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì bác đã hết quyền khởi kiện vụ án hành chính.

    Tuy nhiên, theo quy định mới của Luật tố tụng hành chính có hiệu lực từ ngày 01/7/2011 và Nghị quyết số 01, Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP của HĐTP TAND tối cao tháng 9/2011 hướng dẫn Luật tố tụng hành chính  thì nếu việc khiếu nại đã được thực hiện sau ngày 01/01/2006 thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là 01 năm kể từ ngày Luật tố tụng hành chính có hiệu lực pháp luật. Do vậy, về mặt tố tụng, nếu gia đình bác đã có đơn khiếu nại thì đến nay bác hoàn toàn có thể khởi kiện một vụ án hành chính để Tòa án xem xét lại các quyết định hành chính trên của UBND quận Hà Đông.

    2. Về mặt nội dung: Bác cần kiểm tra lại các quy định pháp luật về thủ tục và mức bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và đối chiếu với trường hợp của gia đình bác xem đã thỏa đáng hay chưa? Kể cả trong trường hợp gia đình bác đã nhận bồi thường, hỗ trợ, tái định cư nhưng nay thấy việc đền bù, hỗ trợ, tái định cư đó chưa thỏa đáng và còn thời hiệu yêu khởi kiện thì gia đình bác vẫn có quyền khởi kiện theo quy định pháp luật. Việc gia đình bác đã nhận bồi thường không phải là căn cứ để mất quyền khởi kiện. Bác có thể tham khảo các quy định của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và các quy định, hướng dẫn cụ thể của UBND thành phố Hà Nội để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, án hành chính ở VN còn nhiều vấn đề nhạy cảm và tế nhị nên để thắng kiện thì không phải dễ dàng. Do vậy, để biết được vụ việc của bác có cơ hội thắng kiện hay không bác nên pho to toàn bộ hồ sơ vụ việc và mang đến VPLS  để Luật sư tư vấn trực tiếp cho bác.

    Chúc bác thành công!

  • Xem thêm     

    07/10/2011, 08:45:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    LUẬT SỐ 34/2009/QH12 NGÀY 18 THÁNG 6 CỦA QUỐC HỘI KHÓA XII, KỲ HỌP THỨ 5 VỀ SỬA ĐỔI, BỔ SUNG ĐIỀU 126 CỦA LUẬT NHÀ Ở VÀ ĐIỀU 121 CỦA LUẬT ĐẤT ĐAI

    Quy định như sau:

    Điều 1. Điều 126 của Luật nhà ở được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 126. Quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt Nam định cư ở nước ngoài

    1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng sau đây được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam:

    a) Người có quốc tịch Việt Nam;

    b) Người gốc Việt Nam thuộc diện người về đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo pháp luật về đầu tư; người có công đóng góp cho đất nước; nhà khoa học, nhà văn hoá, người có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm việc tại Việt Nam; người có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong nước.

    2. Người gốc Việt Nam không thuộc các đối tượng quy định tại điểm b khoản 1 Điều này được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và được phép cư trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ chung cư tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt Nam.”

    Điều 2. Điều 121 của Luật đất đai được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 121. Quyền và nghĩa vụ về sử dụng đất ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở tại Việt Nam

    1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc các đối tượng quy định tại Điều 126 của Luật nhà ở có quyền sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

    2. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

    a) Các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 105 và Điều 107 của Luật này;

    b) Chuyển quyền sử dụng đất ở khi bán, tặng cho, để thừa kế, đổi nhà ở cho tổ chức, cá nhân trong nước, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam để ở; tặng cho nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở cho Nhà nước, cộng đồng dân cư, tặng cho nhà tình nghĩa theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 110 của Luật này. Trường hợp tặng cho, để thừa kế cho đối tượng không thuộc diện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam thì đối tượng này chỉ được hưởng giá trị của nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở;

    c) Thế chấp nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam;

    d) Được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo quy định của pháp luật Việt Nam;

    đ) Cho thuê, ủy quyền quản lý nhà ở trong thời gian không sử dụng.”.

    Luật này có hiệu lực từ ngày 01/9/2009

    Như vậy, nếu chồng bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 1 và Điều 2 nêu trên thì đủ điều kiện để được sở hữu nhà và đứng tên quyền sử dụng đất ở Việt Nam. Nếu chưa thuộc các trường hợp trên thì phải tiến hành các thủ tục cần thiết để đủ một trong các điều kiện nêu trên mới được đứng tên. Hơn nữa, nếu chỉ một mình vợ đứng tên thì vẫn là tài sản chung vợ chồng trừ khi người vợ chứng minh được là tài sản đó có được do người vợ được tặng cho riêng, thừa kế riêng hoặc được hình thành từ nguồn gốc của tài sản riêng. Do vậy, không nhất thiết là cả hai vợ chồng đều đứng tên nếu người chồng đó hiểu quy định này của pháp luật Việt Nam.

    Chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    07/10/2011, 08:28:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Thực ra bạn cũng chỉ “nghe mẹ nói” mà không được “mục sở thị” thì những tư vấn của Ls chỉ mang tính chất tham khảo theo thông tin mà bạn đưa ra. Do vậy, bạn cần xem lại “giấy tờ nhà đứng tên ông bà” là giấy tờ gì? Nhà đất này là do ông bà bạn mua hay được các cụ lâu đời để lại hay được Nhà nước cấp đất…? Hiện nay GCN đứng tên ai? Căn cứ nào để cấp GCN (hồ sơ xin cấp GCN)?

    Căn cứ nào để mẹ bạn yêu cầu chia tài sản chung? Thông thường chỉ có hai căn cứ mà mẹ bạn có thể yêu cầu chia tài sản chung là GCN được cấp cho Hộ gia đình trong đó có tên mẹ bạn hoặc chia tài sản chung theo quy định tại Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của HĐTP TAND tối cao, cụ thể như sau: “Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

    a.1. Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

    a.2. Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

    a.3. Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.”.

    Như vậy, đối với di sản thửa kế, nếu trong thời hạn 10 năm không có văn bản xác nhận quyền thừa kế hoặc sau mười năm mà các đương sự vẫn có tranh chấp thì không thể áp dụng Văn bản pháp luật này để yêu cầu chia tài sản chung.

    Do vậy, bạn cần xem lại tất cả các thông tin trên để tránh “Tiền mất tật mang” Nếu vụ việc này không có căn cứ thì không nên kiện tụng để tránh mất thời gian, tiền của và tình cảm.

    Nếu cần thông tin thêm, hãy liên hệ với tôi để được giải đáp cụ thể!

  • Xem thêm     

    07/10/2011, 04:55:57 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Không có gì! Chào bạn.