Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<707172737475>
  • Xem thêm     

    02/03/2017, 09:37:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Để đảm bảo kỷ luật lao động, pháp luật lao động nước ta quy định những đơn vị sử dụng người lao động phải có nội quy lao động bằng văn bản. Nội quy lao động để duy trì kỷ luật lao động trong các đơn vị nên nó phải có đầy đủ các nội dung chủ yếu như thời giờ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn, vệ sinh lao động và trật tự trong doanh nghiệp, bảo vệ tài sản, bí mật công nghệ kinh doanh...; quan trọng nhất là người sử dụng lao động phải quy định các hành vi vi phạm và các hình thức xử lý kỷ luật lao động, trách nhiệm vật chất tương ứng. Họ không được xử lý kỷ luật lao động hoặc áp dụng trách nhiệm vật chất đối với các hành vi không quy định trong nội quy. Bản nội quy chỉ có hiệu lực khi nó không trái với quy định của pháp luật, thỏa ước tập thể và đã được đăng ký tại cơ quan lao động cấp tỉnh. Sau khi có hiệu lực, người sử dụng lao động phải phổ biến nội quy đến từng người lao động, họ phải niêm yết những điểm chính trong nội quy ở nơi làm việc để mọi người lao động biết, nhớ và thường xuyên thực hiện.

    Lỗi người lao động chỉ bị chịu trách nhiệm kỷ luật khi họ có hành vi vi phạm kỷ luật và có lỗi. Khi không có lỗi, mặc dù có hành vi vi phạm thì cũng không đủ cơ sở để áp dụng trách nhiệm kỷ luật. Người lao động sẽ bị coi là có lỗi, nếu họ vi phạm kỷ luật lao động trong khi họ có đầy đủ điều kiện và khả năng thực tế để thực hiện các nghĩa vụ lao động của mình.

  • Xem thêm     

    02/03/2017, 11:39:42 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 130 Bộ luật lao động 2012 thì các trường hợp phải bồi thường thiệt hại, đó là:

    “1. Người lao động làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị hoặc có hành vi khác gây thiệt hại tài sản của người sử dụng lao động thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp người lao động gây thiệt hại không nghiêm trọng do sơ suất với giá trị không quá 10 tháng lương tối thiểu vùng do Chính phủ công bố được áp dụng tại nơi người lao động làm việc, thì người lao động phải bồi thường nhiều nhất là 03 tháng tiền lương và bị khấu trừ hằng tháng vào lương theo quy định tại khoản 3 Điều 101 của Bộ luật này.

    2. Người lao động làm mất dụng cụ, thiết bị, tài sản của người sử dụng lao động hoặc tài sản khác do người sử dụng lao động giao hoặc tiêu hao vật tư quá định mức cho phép thì phải bồi thường thiệt hại một phần hoặc toàn bộ theo thời giá thị trường; trường hợp có hợp đồng trách nhiệm thì phải bồi thường theo hợp đồng trách nhiệm; trường hợp do thiên tai, hoả hoạn, địch họa, dịch bệnh, thảm họa, sự kiện xảy ra khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép thì không phải bồi thường.”

    Việc áp dụng thồi thường thiệt hại và trách nhiệm vật chất đối với bạn chỉ được tiến hành khi có các căn cứ xác định lỗi của người vi phạm. Như vậy, xác định lỗi là một bước quan trọng để xác định trách nhiệm vật chất, nếu bạn không có lỗi trên thì cũng không quy định trách nhiệm điều kiện để áp dụng chế độ trách nhiệm vật chất phải bồi thường đối với bạn.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    01/03/2017, 11:08:03 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Khoản 2 Điều 32 Bộ luật lao động 2012 quy định các trường hợp tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động có trường hợp: “ Người lao động bị tạm giữ, tạm giam theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.”

    Hết thời hạn tạm hoãn thì của người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc và việc giải quyết hậu quả của việc tạm hoãn được quy định tại Điều 33 Bộ luật lao động 2012  về việc nhận lại người lao động hết thời hạn tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm hoãn hợp đồng lao động đối với các trường hợp quy định tại Điều 32 của Bộ luật này, người lao động phải có mặt tại nơi làm việc và người sử dụng lao động phải nhận người lao động trở lại làm việc, trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác.”

    Cũng tại Khoản 5 Điều 36 Bộ luật lao động 2012 về các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động trong đó: “Người lao động bị kết án tù giam, tử hình hoặc bị cấm làm công việc ghi trong hợp đồng lao động theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án.”

    Như vậy, với trường hợp do hai bên thoả thuận, Luật lao động và các văn bản hướng dẫn không có quy định rõ ràng nhưng có thể hiểu rằng các trường hợp tạm hoãn này chỉ cần hai bên thỏa thuận và có sự nhất trí về việc tạm hoãn, lí do tạm hoãn…mà người lao động chấp nhận lí do đó.

    Theo quy định trên của pháp luật thì hợp đồng lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ được đương nhiên tạm hoãn hoặc tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt mà không phụ thuộc vào ý chí của người sử dụng lao động và người lao động, việc tạm hoãn hoãn hoặc tiếp tục thực hiện hoặc chấm dứt hợp đồng theo quy định trên sẽ không bị hủy bỏ hay mất hiệu lực hợp đồng cho đến khi hết thời hạn tạm hoãn theo pháp luật quy định hoặc đương nhiên chấm dứt theo luật định.

    Pháp luật không quy định cụ thể thủ tục tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi các bên và tạo cơ sở pháp lý nếu có tranh chấp lao động xảy ra sau này thì người sử dụng lao động có thể ra Thông báo hoặc Quyết định tạm hoãn, hoặc chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động kèm theo Quyết định của cơ quan Tố tụng hay Bản án của Tòa án.

    Việc tiền lương phải trả cho lao động, các chế độ bảo hiểm, chế độ báo cáo cơ quan chức năng (Bảo hiểm, lao động...) thì phải làm thủ tục Thông báo hoặc ra Quyết định như chúng tôi đã nêu ở trên.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/02/2017, 04:50:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch 07/2013/TT-BGD ĐT-BNV-BTC quy định cách tính tiền lương dạy thêm giờ:

    a) Tiền lương dạy thêm giờ/năm học = số giờ dạy thêm/năm học x Tiền lương 01 giờ dạy thêm;

    b) Tiền lương 01 giờ dạy thêm = Tiền lương 01 giờ dạy x 150%;

    c) Tiền lương 01 giờ dạy:

    - Đối với giáo viên cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp và giáo viên, giảng viên cơ sở dạy nghề:

    Tiền lương 01 giờ dạy

    =

    Tổng tiền lương của 12 tháng trong năm học

    x

    Số tuần dành cho giảng dạy (dạy trẻ)

    Định mức giờ dạy/năm

    52 tuần

     

    Tại Khoản 8 Điều 3 Thông tư trên quy định: Số giờ dạy thêm được tính trả tiền lương dạy thêm giờ theo quy định tại Thông tư liên tịch này không quá số giờ làm thêm theo quy định của pháp luật.

    ại Khoản 8 Diều 3 Thông tư trên quy định: Số giờ dạy thêm được tính trả tiền lương dạy thêm giờ theo quy định tại Thông tư liên tịch này không quá số giờ làm thêm theo quy định của pháp luật.

    Như vậy, số giờ dạy thêm được tính trả tiền lương dạy thêm giờ  không quá số giờ làm thêm theo quy định của pháp luật. Theo Điều 106 Bộ luật Lao động tổng số giờ làm thêm không quá 200 giờ/1 năm.

    Việc nhà trường chỉ tính cho bạn 100 tiết và lấy 64 tiết để trừ qua cho số tiết dạy định mức của bạn trong năm nay 2016-2017 là không phù hợp với quy định trên.

    Việc đầu tiên là bạn, hoặc bạn có thể cùng công đoàn cơ sở thực hiện việc bảo vệ quyền lợi về vấn đề này. Nếu nhà trường vẫn tiếp tục thực hiện như trên thì Bạn có thể gửi đơn khiếu nại tới ban giám hiệu. Nếu họ không giải quyết, bạn có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết lên cấp trên là cấp Phòng hoặc Sở để bảo đảm quyền lợi của mình.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    28/02/2017, 11:57:11 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn đã làm cho cơ quan nhà nước từ năm 2012 đến nay (1/ 2017), như vậy bạn có thể là công chức hoặc viên chức hoặc người làm việc theo hợp đồng lao động. Trường hợp bạn đang thắc mắc trên tôi tôi sẽ đặt ra tình huống bạn là viên chức làm việc trong một đơn vị sự nghiệp nhà nước. Bạn đã nộp đơn xin nghỉ việc từ đầu tháng 11/2016 với lý do hoàn cảnh gia đình khó khăn, nhà quá xa, không thể tiếp tục công tác nữa. Cơ quan đã đồng ý cho nghỉ việc, nhưng chưa ra quyết định cho bạn.

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 38 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức quy định, viên chức được giải quyết thôi việc trong các trường hợp sau:

    - Viên chức có đơn tự nguyện xin thôi việc được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền đồng ý bằng văn bản;

    - Viên chức đơn phương chấm dứt Hợp đồng làm việc theo quy định tại khoản 4 và khoản 5, Điều 29 Luật Viên chức, gồm các trường hợp:

    Viên chức làm việc theo Hợp đồng làm việc (HĐLV) không xác định thời hạn đơn phương chấm dứt hợp đồng phải thông báo bằng văn bản cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập biết trước ít nhất 45 ngày; trường hợp viên chức ốm đau hoặc bị tai nạn đã điều trị 6 tháng liên tục thì phải báo trước ít nhất 3 ngày (Khoản 4, Điều 29 Luật Viên chức).

    Viên chức làm việc theo HĐLV xác định thời hạn đơn phương chấm dứt hợp đồng trong trường hợp: Bản thân hoặc gia đình thật sự có hoàn cảnh khó khăn không thể tiếp tục thực hiện hợp đồng(Điểm d Khoản 5 Điều 29 Luật Viên chức).

    Trường hợp của bạn, việc bạn có đơn tự nguyện xin thôi việc được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền đồng ý giải quyết thôi việc theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 38 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP là trường hợp hai bên chấm dứt HĐLV theo thoả thuận.

    Do yêu cầu công tác, chưa bố trí được người thay thế nên người đứng đầu đơn vị chưa giải quyết cho bạn thôi việc là phù hợp với quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 38 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP. Việc đơn vị chưa giải quyết thôi việc theo nguyện vọng của bạn là trường hợp hai bên chưa thỏa thuận được việc chấm dứt HĐLV.

    Bên cạnh trường hợp hai bên chấm dứt HĐLV theo thỏa thuận, hoặc hai bên chưa thỏa thuận được việc chấm dứt HĐLV (nêu trên), thì điểm b, khoản 1, Điều 38 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP còn quy định viên chức làm việc theo HĐLV không xác định thời hạn được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định tại khoản 4, Điều 29 Luật Viên chức.

    Theo đó, nếu bạn chưa được đơn vị đồng ý cho thôi việc theo nguyện vọng, thì bạn còn có quyền đơn phương chấm dứt HĐLV sau khi bạn có thông báo bằng văn bản nội dung sẽ đơn phương chấm dứt HĐLV gửi cho người đứng đầu đơn vị sự nghiệp đó biết trước ít nhất 45 ngày.

    Trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày bạn thông báo bằng văn bản việc đơn phương chấm dứt HĐLV, đơn vị cần có phương án nhân sự thay thế vị trí việc làm của bạn để đảm bảo yêu cầu công tác sau khi bạn thôi việc.

    Như phân tích nêu trên, nhận thấy quy định tại điểm d, khoản 2, Điều 38 Nghị định số 29/2012/NĐ-CP về việc viên chức có nguyện vọng thôi việc nhưng do yêu cầu công tác chưa bố trí được người thay thế nên chưa được đơn vị sự nghiệp đồng ý cho thôi việc, không có mâu thuẫn với quy định về quyền đơn phương chấm dứt HĐLV của viên chức quy định tại khoản 4, khoản 5, Điều 29 Luật Viên chức vì hai quy phạm pháp luật này điều chỉnh 2 vấn đề khác nhau đó là việc chấm dứt HĐLV theo thỏa thuận và việc viên chức đơn phương chấm dứt HĐLV. 

    Việc đưa ra ý kiến tư vấn trên sẽ cung cấp và chia sẻ trên đã giúp bạn có thông tin để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    27/02/2017, 09:33:01 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn là người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp, là người đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Việc phương án nào để phó giám đốc cũng chịu trách nhiệm trước pháp luật cùng bạn cũng là cả một vấn đề cần phải bàn luận. Do đó,  bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi theo số ĐT: 0913586658 để được tư vấn cụ thể hơn.

    Trân trọng!

  • Xem thêm     

    26/02/2017, 11:12:50 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn như tôi đã tư vấn ở trên. Việc đầu tiên là bạn, hoạc bạn có thể cùng công đoàn cơ sở thực hiện hòa giải về vấn đề này. Nếu Công ty vẫn tiếp tục thực hiện như trên thì Bạn có thể gửi đơn khiếu nại lên ban điều hành công ty về hành vi của họ. Nếu họ không giải quyết, bạn có thể gửi đơn yêu cầu giải quyết lên Phòng Lao động, Thương binh và xã hội thuộc UBND huyện nơi công ty đóng trụ sở để họ xem xét và tiến hành thủ tục hòa giải. Nếu hòa giải không thành, bạn có thể khởi kiện hành vi vi phạm của công ty lên Tòa Án nhân dân huyện nơi công ty đóng trụ sở.

    Nếu bạn có thắc mắc hay có điều gì làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    25/02/2017, 11:55:03 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Khoản 1 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định: “Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.”

    Về chế độ thai sản theo quy định của pháp luật bảo hiểm và trong thời gian mà bạn nghỉ chế độ thai sản vợ bạn sẽ được hưởng  bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của sáu tháng liền kề trước khi nghỉ việc – khoản 2 điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2012 nếu bạn đã đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Trường hợp vợ bạn được hưởng chế độ thai sản do Bảo hiểm xã hội chi trả chứ không khải do doanh nghiệp trả. 
    Trường hợp vợ bạn đã nghỉ hết thời gian thai sản mà tự ý nghỉ việc thì phải thực hiện đúng theo các quy định về trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động. Nếu bạn nghỉ thai sản xong nghỉ việc luôn mà không báo trước tức là bạn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật. Theo đó, trách nhiệm của vợ bạn sẽ theo điều 43 Bộ luật lao động 2012, cụ thể là:

    “ 1. Không được trợ cấp thôi việc và phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động.

    2. Nếu vi phạm quy định về thời hạn báo trước thì phải bồi thường cho người sử dụng lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.

    3. Phải hoàn trả chi phí đào tạo cho người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này.”

    Việc vợ bạn đơn phương chấm dứt hợp đồng là việc của vợ bạn chứ không liên quan đến công việc bạn đang làm, hai người tuy là vợ chồng nhưng tư cách cá nhân là độc lập và là hai người có quan hệ pháp luật lao động khác nhau. Hơn nữa, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng của vợ bạn đúng sai chưa biết nhưng hành vi công ty viết giấy xuống bộ phận nơi bạn làm việc để truy thu tiền bảo hiểm của vợ bạn trừ vào tiền lương của bạn là hoàn toàn trái pháp luật.

    Theo Điều 191 Bộ Luật lao động quy định về Quyền của cán bộ công đoàn cơ sở trong quan hệ lao động:"Gặp người sử dụng lao động để đối thoại, trao đổi, thương lượng về những vấn đề lao động và sử dụng lao động". Do đó, người lao động có thể nhờ cán bộ Công đoàn cơ sở gặp người có thẩm quyền ở công ty để thương lượng về vấn đề của bạn nêu trên.

    Trường hợp bạn và những người lao động không đồng ý yêu cầu trừ lương của công ty thì có thể làm đơn yêu cần tới Phòng Lao động - thương binh và xã hội để hòa giải. Nếu vẫn không giải quyết được vấn đề thì bạn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận/huyện nơi mà công ty có trụ sở.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi theo số ĐT:0913586658 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    24/02/2017, 10:34:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn là người đứng đại diện công ty CP hoạt động trong lĩnh vực Y tế ( bao gồm khám,chữa bệnh và phòng tiêm chủng Vacxin). Từ tháng 1/2017 bạn đứng tên đại diện pháp luật chỉ nhận lại bàn giao về công nợ còn mọi thứ giám đốc đứng tên chỉ đạo là cổ đông lớn là sếp bệnh viện. Căn cứ Khoản 1 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: “Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.”

    Như vậy, bạn là Người đại diện theo pháp luật, là người mà công ty đăng ký với vị trí là “người đại diện theo pháp luật” – thể hiện trong Giấy đăng ký kinh doanh (thường là Giám đốc) được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, để đại diện cho một cá nhân hay tổ chức thực hiện các giao dịch hay hành vi dân sự, hành chính …vì lợi ích của doanh nghiệp.

    Căn cứ Điều 14 Luật doanh nghiệp 2014 quy định Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp:

    “1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:

    a) Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

    b) Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp, không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

    c) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về việc người đại diện đó và người có liên quan của họ làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp chi phối tại các doanh nghiệp khác.

    2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với những thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm nghĩa vụ quy định tại khoản 1 Điều này.”

    Như vậy, trường hợp người đại diện theo pháp luật gây thiệt hại cho công ty thì thì sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân do vi phạm các nghĩa vụ . Nếu sau này phát hiện ra sai phạm mà người này không còn là người đại diện thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với hành vi đã gây ra. Do đó,  từ góc độ áp dụng pháp luật, để truy cứu trách nhiệm hình sự tổ chức, chỉ cần chứng minh hành vi phạm tội, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy tổ chức và các điều kiện khác của trách nhiệm hình sự  (như vai trò lãnh đạo, chỉ huy của cá nhân trong tổ chức, nhân danh, thay mặt tổ chức, vì lợi ích của tổ chức…) là đủ. Theo đó, nếu người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân phạm tội vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân thì cả pháp nhân và người lãnh đạo, người đại diện đó phải chịu trách nhiệm về tội phạm được thực hiện và nếu người đại diện pháp luật của pháp nhân, do những mục đích cá nhân hoặc cả pháp nhân mà phạm tội thì sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với hành vi của mình.

    Do bạn vẫn đứng tên là người đại diện theo pháp luật của công ty và không có người thay thế. Bạn muốn chấm dứt tư cách này cần làm thủ tục thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty CP bao gồm các giấy tờ sau:

    a) Thông báo thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty;

    b) Bản sao giấy tờ chứng thực cá nhân của người thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty;

    c) Quyết định của chủ sở hữu công ty đối với công ty TNHH một thành viên, Quyết định bằng văn bản và bản sao Biên bản họp của Hội đồng thành viên đối với công ty TNHH hai thành viên trở lên về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật;

    Quyết định bằng văn bản và bản sao Biên bản họp của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty CP về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật làm thay đổi nội dung Điều lệ công ty hoặc trường hợp Điều lệ công ty CP quy định Chủ tịch Hội đồng quản trị là người đại diện theo pháp luật và Đại hội đồng cổ đông công ty bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị;

    Quyết định bằng văn bản và bản sao Biên bản họp của Hội đồng quản trị đối với công ty CP trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật không làm thay đổi nội dung của Điều lệ công ty ngoài nội dung họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty quy định tại Khoản 15 Điều 22 Luật Doanh nghiệp."

    Theo quy định tại về đăng ký thay đổi người đại theo pháp luật của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần quy định nội dung hồ sơ thông báo gửi  đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi công ty đã đăng ký gồm:

    + Tên, mã số doanh nghiệp, mã số thuế hoặc số Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (trường hợp doanh nghiệp chưa có mã số doanh nghiệp và mã số thuế);

    + Họ, tên, số Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 24 Nghị định này, chức danh, địa chỉ thường trú của người đang là đại diện theo pháp luật của công ty và của người thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty;

    + Họ, tên và chữ ký của Chủ tịch Hội đồng quản trị  Công ty cổ phần. Trường hợp Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty bỏ trốn khỏi nơi cư trú, bị tạm giam, bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được bản thân hoặc từ chối ký tên vào thông báo của công ty thì phải có họ, tên và chữ ký của các thành viên Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc các thành viên Hội đồng quản trị đã tham dự và biểu quyết nhất trí về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty.

    Kèm theo Thông báo phải có: Quyết định bằng văn bản và bản sao biên bản họp của Hội đồng thành viên  của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty làm thay đổi nội dung điều lệ công ty, của Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần trong trường hợp việc thay đổi người đại diện theo pháp luật của công ty không làm thay đổi nội dung điều lệ công ty; Quyết định của chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên về việc thay đổi người đại diện theo pháp luật; bản sao Giấy chứng minh nhân dân hoặc Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác quy định tại Điều 24 Nghị định này của người thay thế làm đại diện theo pháp luật của công ty.

    Quyết định, biên bản họp Hội đồng thành viên hoặc Đại hội đồng cổ đông và quyết định của chủ sở hữu công ty phải ghi rõ những nội dung được sửa đổi trong Điều lệ công ty.

    Khi nhận Thông báo, Phòng Đăng ký kinh doanh trao giấy biên nhận và đăng ký thay đổi người đại diện theo pháp luật của Công ty cổ phần.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    23/02/2017, 04:59:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ tại Mục a Điểm 3.3 Khoản 3 Điều 46 Quyết định 959/QĐ-BHXH có quy định ghi xác nhận sổ BHXH, BHTN của người lao động trong một số trường hợp đơn vị còn nợ tiền đóng BHXH, BHTN như sau: “ Doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục phá sản, giải thể theo quy định của pháp luật còn nợ tiền BHXH, BHYT, BHTN nếu có người lao động chuyển nơi làm việc thì cơ quan BHXH xác nhận thời gian đóng BHXH trên sổ BHXH của người lao động đến thời điểm doanh nghiệp đã đóng BHXH để người lao động tiếp tục tham gia BHXH tại đơn vị mới, sau khi thu hồi được khoản nợ của doanh nghiệp thì xác nhận bổ sung thời gian đóng BHXH trên sổ BHXH của người lao động.”

    Ngoài trường hợp này, doanh nghiệp khi nợ tiền bảo hiểm xã hội theo khoản 1 Điều 62 Quyết định 1111/QĐ- BHXH thì ghi, xác nhận đến thời điểm người lao động ngừng việc. Nếu số tiền đơn vị nợ lớn hơn số tiền phải đóng của một kỳ đóng thì đơn vị phải có văn bản cam kết gửi cơ quan BHXH, ghi rõ thời hạn đóng đủ số tiền còn nợ và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Giám đốc BHXH tỉnh căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để giải quyết. 

    Như vậy, đối với doanh nghiệp thực sự gặp khó khăn, đang phải nợ BHXH, BHYT, người lao động có thể yêu cầu giám đốc doanh nghiệp gửi văn bản về cơ quan BHXH cam kết trả đủ tiền nợ BHXH, BHYT và đóng trước một khoản BHXH, BHYT để giải quyết chế độ BHXH và chốt sổ BHXH cho người lao động. Khi nhận được văn bản kiến nghị của doanh nghiệp, giám đốc BHXH tỉnh sẽ xem xét, phối hợp với Sở Lao động - thương binh và xã hội xác nhận thực trạng khó khăn của doanh nghiệp để giải quyết chế độ BHXH cho người lao động này khi phải chấm dứt hợp đồng lao động. Trường hợp doanh nghiệp không đồng ý làm công văn báo cáo tình trạng hoạt động khó khăn cho BHXH thì người lao động có thể tự mình đi chốt sổ BHXH.

    Nếu công ty cũ vẫn không chốt sổ cho người lao động hoặc không đóng đúng, đóng đủ BHXH cho người lao động thì người lao động có thể liên hệ với Phòng Lao động- Thương binh và Xã hội quận, huyện (nơi đơn vị sử dụng lao động đặt trụ sở) hoặc Thanh tra Sở Lao động-Thương binh và Xã hội để được can thiệp giúp đỡ.

    Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn thực hiện không quy định việc cá nhân người lao động tự đóng BHXH phần trách nhiệm đóng của người lao động và phần của người sử dụng lao động, nên câu hỏi của bạn về việc tự đóng khoản nợ BHXH của Công ty để được chốt sổ BHXH là không có cơ sở để thực hiện.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 09:20:42 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với yêu cầu trợ giúp tư vấn của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

    Căn cứ tại Điều 28 Bộ luật lao động 2012 có quy định về Tiền lương trong thời gian thử việc như: “Tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc do hai bên thoả thuận nhưng ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó”.

    Còn đối với trường hợp trả lương thì các bên sẽ trả lương theo hợp đồng lao động nhưng sẽ không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng  do chính phủ quy định theo Khoản 1 Điều 90 Bộ luật lao động 2012 như :. “Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận.

    Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác.

    Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Chính phủ quy định”.

    Như vậy, Mức lương làm việc chính thức là do sự thỏa thuận của người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên người sử dụng lao động không được trả mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy định của Nhà nước tùy theo thỏa thuận của bạn hoặc công ty, mức lương khi làm chính thức của bạn có thể cao hơn hoặc thấp hơn lương thử việc. Việc kí hợp đồng với mức lương thử việc và lương chính thức như vậy của công ty là phù hợp theo quy định của pháp luật.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.


     

  • Xem thêm     

    13/02/2017, 10:55:55 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ Điều 16 Thông tư liên tịch số163/2013/TTLT-BTC-BNV quy định về phụ cấp trách nhiệm công việc phụ trách kế toán như sau:

    1. Người được bố trí phụ trách kế toán ở các đơn vị quy định tại Khoản 1 Điều 2 và Điểm a Khoản 2 Điều 2 của Thông tư liên tịch này được hưởng phụ cấp trách nhiệm công việc là 0,1 so với mức lương cơ sở.

    2. Người được bố trí phụ trách kế toán ở các đơn vị khác được hưởng mức phụ cấp trách nhiệm công việc phụ trách kế toán theo quyết định của cấp có thẩm quyền trên cơ sở vận dụng mức phụ cấp trách nhiệm công việc kế toán quy định tại Khoản 1 Điều này phù hợp với hoạt động của đơn vị mình.

    Theo quy định trên, nếu đáp ứng đủ 2 điều kiện quy định nêu trên thì được hưởng phụ cấp trách nhiệm công việc là 0,1 so với mức lương cơ sở


     

  • Xem thêm     

    10/02/2017, 12:52:13 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Mục II Thông tư 78/2005/TT-BNV Thông tư Hướng dẫn thực hiện chế độ phụ cấp kiêm nhiệm đối với cán bộ, công chức, viên chức kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác có quy định như sau:

    1. Cán bộ, công chức, viên chức kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác quy định tại mục I Thông tư này được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm khi có đủ 2 điều kiện sau:

    a) Đang giữ chức danh lãnh đạo (bầu cử hoặc bổ nhiệm) ở một cơ quan, đơn vị.
    b) Được cấp có thẩm quyền phê chuẩn kết quả bầu cử hoặc quyết định bổ nhiệm kiêm nhiệm giữ một hoặc nhiều chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác mà chức danh lãnh đạo đứng đầu ở cơ quan, đơn vị khác này theo cơ cấu tổ chức bộ máy được bố trí biên chế chuyên trách người đứng đầu nhưng hoạt động kiêm nhiệm.

    2. Người kiêm nhiệm một hoặc nhiều chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác chỉ hưởng một mức phụ cấp kiêm nhiệm trong suốt thời gian giữ một hoặc nhiều chức danh lãnh đạo kiêm nhiệm đó. Khi thôi kiêm nhiệm chức danh lãnh đạo đứng đầu cơ quan, đơn vị khác thì thôi hưởng phụ cấp kiêm nhiệm kể từ tháng sau liền kề với tháng thôi giữ chức danh lãnh đạo kiêm nhiệm.”

    Theo quy định trên, nếu đáp ứng đủ 2 điều kiện quy định tại Khoản 1 Mục II Thông tư trên thì sẽ được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm.

  • Xem thêm     

    09/02/2017, 10:27:38 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định pháp luật về lao động, lương thưởng sẽ dựa trên cơ sở thỏa thuận của người sử dụng lao động với người lao động thông qua hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và còn phải căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hằng năm. Việc thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở. Do đó, pháp luật không có quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải thưởng lương cho người lao động.

    Căn cứ Điều 103 quy định về Tiền thưởng như sau:

    1. Tiền thưởng là khoản tiền mà người sử dụng lao động thưởng cho người lao động căn cứ vào kết quả sản xuất kinh doanh hằng năm và mức độ hoàn thành công việc của người lao động.

    2. Quy chế thưởng do người sử dụng lao động quyết định và công bố công khai tại nơi làm việc sau khi tham khảo ý kiến của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở.

    Như vậy, việc công ty thưởng lương cho người lao động  theo quy chế nhưng không thực hiện chế độ thưởng tết cho những người lao động nộp bằng cấp về chuyên môn là bản sao mà chỉ thưởng tết cho những người nộp bằng cấp chuyên môn là bản chính là việc không phù hợp với pháp luật nêu trên. Nếu trong hợp đồng lao động hoặc thỏa ước lao động tập thể hoặc quy chế thưởng của công ty bạn có quy định về việc thưởng tiền lương thì người lao động được hưởng tiền lương như trên cũng là trái với quy định vì giá trị Bằng cấp chuyên môn là bản sao cũng có giá trị như bản chính; và tại Khoản 1 Điều 20 Bộ luật lao động 2013 cũng đã quy định hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động  là “Giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động”.

    Trong trường hợp giữa người lao động và công ty đã có thỏa thuận trong hợp đồng lao động, Quy chế thưởng hoặc thỏa ước lao động tập thể về việc trả lương thưởng mà công ty không thực hiện như trên thì người lao động hoặc tổ chức công đoàn (hoặc nhờ tổ chức công đoàn cấp trên) có nghĩa vụ đại diện cho người lao động yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện cam kết này. Nếu hai bên thương lượng nhưng không giải quyết được, người lao động có quyền yêu cầu bên thứ ba (Hội đồng hòa giải, Cơ quan quản lý lao động, Tòa án) giải quyết.

    Trên đây là nội dung trả lời cho trường hợp của bạn, hy vọng có thể giúp bạn trong quá trình giải quyết việc này. Nếu bạn có bất kỳ vướng mắc nào khác vui lòng liên hệ ĐT trực tiếp với tôi.

  • Xem thêm     

    08/02/2017, 02:59:31 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, cần phải làm như sau:

    1. Đơn tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo".

    Theo đó, người tố cáo phải có nghĩa vụ nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình. Và có quyền yêu cầu cơ quan chức năng giữ bí mật các thông tin cá nhân của mình và còn có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập để đảm bảo quyền và nghĩa vụ của người tố cáo.

    2. Bà mẹ sau khi sinh và em bé 2 tháng tuổi không có bất cứ quyền lợi gì trong căn nhà đó vì:

    Việc người con dâu và đứa bé là ở nhờ không có bất cứ quyền sở hữu đối với ngôi nhà trên. Người có toàn quyền là bà mẹ chồng có quyền của chủ sở hữu nhà nên bà có toàn quyền của chủ sở hữu bảo vệ quyền và lợi ích hợp phapos của mình. Do đó, việc tố cáo hoặc khởi kiện để trục xuất người con dâu ra khỏi nhà là có căn cứ; và việc người con dâu với đứa cháu mới sinh kia chỉ có quyền lưu cư trong một thời hạn ngắn nhất định khi bà mẹ chồng có yêu cầu rời khỏi nhà mình. 

    Nếu bạn có thắc mắc, hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì tốt nhất hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn nhé

  • Xem thêm     

    07/02/2017, 09:42:13 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Nếu bạn vẫn thắc mắc hoặc cảm thấy không đúng với quan điểm của mình thì bạn có thể nhờ công đoàn cơ sở; hòa giải viên lao động giải quyết vấn đề này để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc bạn có thể khởi kiện ra Tòa án để giải quyết.

  • Xem thêm     

    05/02/2017, 10:17:18 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, chúng tôi tư vấn như sau:

    Nếu ngôi nhà là tài sản của mẹ chồng thì bà có toàn quyền của chủ sở hữu quy định tại Điều 10 Luật Nhà ở 2014 có cụ thể quyền là: “Có quyền bất khả xâm phạm về nhà ở thuộc sở hữu hợp pháp của mình”

    Cũng tại Điểm h Khoản 1 Điều 10 Luật nhà ở quy định quyền của chủ sở hữu là: “Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của mình và các hành vi khác vi phạm pháp luật về nhà ở.”

    Việc bà mẹ chồng là chủ sở hữu ngôi nhà của bà và bà cho con dâu và con trai ở nhờ nhà có sự đồng ý của chủ sở hữu là bà mẹ. Nếu bà mẹ chồng không muốn cho con dâu ở nữa thì cũng không trái với quy định của pháp luật. Bà mẹ chồng có toàn quyền trục xuất con đẻ và cô con dâu ra khỏi nhà. Do đó, bà có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện đối với các hành vi vi phạm quyền sở hữu hợp pháp của mình và các hành vi vi phạm pháp luật khác với cơ quan có thẩm quyền.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

    Luật sư Nguyễn Thanh Tùng

    Mobile: 0913586658

     

  • Xem thêm     

    28/01/2017, 01:01:23 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Vấn đề của bạn là giao dịch mua bán xe ô tô giữa các bên thỏa thuận có được ghi trong hợp đồng giữa các bên trong đó có hoạt động trả góp, việc này khi mua bán xe đã có sự thỏa thuận về chậm trả dần này.

    Căn cứ Điều 453 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Mua trả chậm, trả dần được quy định như sau:

    1. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên mua trả chậm hoặc trả dần tiền mua trong một thời hạn sau khi nhận tài sản mua. Bên bán được bảo lưu quyền sở hữu đối với tài sản bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    2. Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có quyền sử dụng tài sản mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    Như vậy, theo quy định này bên mua chỉ được bảo lưu quyền sở hữu của mình đối với vật bán cho đến khi bên mua trả đủ tiền. Trong sự việc của bạn thì bạn chưa tiến hành hoàn trả toàn bộ số tiền nên quyền sở hữu chiếc xe chưa tuyệt đối. Vì vậy, bạn có thể thỏa thuận với các bên liên quan về vấn đề tiền trả góp để xem xét thanh lý tài sản đó. Trong trường hợp, công ty đã thu hồi xe và thanh lý mà không thông báo cho bạn như trong hợp đồng đã ký thì bạn có quyền khiếu nại đến Công ty hoặc khởi kiện tại Tòa án để đảm bảo quyền lợi của mình.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

    Luật sư Nguyễn Thanh Tùng

    Mobile: 0913 586 658.

  • Xem thêm     

    22/01/2017, 11:13:21 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp thì có thể hiểu mảnh đất có nguồn gốc do tổ tiên để lại, tuy nhiên hiện nay do cha bạn trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất đó  và không rõ hiện cha bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa. Tuy nhiên tôi cứ giả sử cha bạn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

    Như vậy, về mặt pháp luật thì cha bạn đã được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất mới là chủ sử dụng của mảnh đất đó, quyền và lợi ích hợp pháp của cha bạn được Nhà nước bảo hộ. Về mặt pháp lý, cha bạn có quyền sở hữu quyền sử dụng đất và có toàn quyền của chủ sử dụng đất theo quy định của luật đất đai chứ không ai khác. Việc cha bạn có chia đất hay không là thuộc quyền của cha bạn

    Do đó, hiện nay mảnh đất này không được coi là di sản thừa kế để lại, việc ông bà nội bạn có chia mảnh đất cho tất cả các anh chị em cha bạn không thể lấy làm căn cứ để yêu cầu phải chia đất.

    Tuy nhiên, vì thực tế nguồn gốc của mảnh đất tổ tiên để lại, nếu như các chị em của cha bạn cho rằng việc hai anh em bạn đứng tên chủ sử dụng thửa đất trên giấy chứng nhận là có vướng mắc thì anh chị em cha bạn  phải có căn cứ chứng minh và có thể khiếu nại, khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của họ. Nếu như việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của cha bạn không đúng đối tượng, không đúng trình tự, thủ tục thì có thể bị thu hồi giấy chứng nhận đó và thửa đất sẽ được xác định là di sản thừa kế do để lại.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng rằng sự tư vấn của tôi sẽ giúp bạn lựa chọn phương án thích hợp nhất để giải quyết những vướng mắc của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    18/01/2017, 10:36:42 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 562 Bộ luật dân sự  2015 quy định: Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Khoản 1 điều  134 BLDS quy định: "Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi chung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Theo đó, người được ủy quyền là người đại diện cho người ủy quyền theo thỏa thuận giữa các bên. Thẩm quyền của người được ủy quyền bị giới hạn bởi nội dung ghi trong hợp đồng ủy quyền hay giấy ủy quyền.

    Như vậy, chồng bà có thể ủy quyền cho con thực hiện các quyền của chủ sử dụng đất, trong đó có việc thế chấp quyền sử dụng đất tại Ngân hàng. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp bạn hỏi và hy vọng sẽ có cách giải quyết cho bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

75 Trang «<707172737475>