Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<61626364656667>»
  • Xem thêm     

    24/10/2017, 11:34:41 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trong trường hợp của này , bạn và một người bạn của bạn đã đưa liên tục để giúp đỡ tới thời điểm hiện tại hơn 300.000.000đ mà không có giấy tờ hay bằng chứng gì chứng minh đã giao tiền. Trong suốt thời gian đó, người ở nước ngoài vẫn kêu không có giấy tờ và gọi điện vay mượn nhiều lần và hứa khi về được sẽ trả hết.

    Trong trường hợp của bạn, việc bạn cho vay không đủ căn cứ để chứng minh cho giao dịch vay tiền đó của bạn đã diễn ra, bạn cho người bạn kia vay tiền mà không xác lập hợp đồng vay tiền, cũng không có một giấy tờ nào liên quan để chứng minh việc cho vay của bạn và người kia đã diễn ra trên thực tế, do đó bạn không đủ căn cứ để xác lập nghĩa vụ dân sự của người bạn kia đối với bạn. Do đó bạn không thể tiến hành khởi kiện dân sự đòi lại tài sản.

    Đối với việc tiến hành tố cáo đối với hành vi lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, khi tố cáo người tố cáo cần đưa ra các chứng cứ cho việc tố cáo của mình là đúng sự thật. do vậy, trường hợp của bạn, nếu bạn không có bất kì chứng cứ nào làm căn cứ cho việc tố cáo của mình thì bạn sẽ không thể tiến hành tố cáo đối với hành vi vay tiền của người bạn đó được. Tuy nhiên bạn cứ thử bằng cách tố cáo để cơ quan điều tra vào cuộc để bảo vệ quyền lợi của mình xem thế nào. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    24/10/2017, 11:24:47 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trong trường hợp này, công ty không đóng BHXH cho bạn, tức là đã vi phạm quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội 2014, cụ thể:

    “Điều 17. Các hành vi bị nghiêm cấm

    1. Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.

    2. Chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp”

    Khi đó, công ty sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 như sau:

    “3. Người sử dụng lao động có hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của Luật này từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội”. 

    Như vậy, khi công ty không đóng hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 ngày trở lên thì sẽ phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng. Bên cạnh đó, tùy từng trường hợp còn bị Trường hợp của bạn có lẽ chưa đủ yếu tố để khiếu nại hoặc khởi kiện( mới ký hợp đồng chính thức chỉ được nửa tháng) nên chưa thỏa mãn điều kiện của điều luật được viện dẫn ở trên. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn bạn nhé.

  • Xem thêm     

    24/10/2017, 11:10:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

     “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

     a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

     b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

     c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

     đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

     e) Có tổ chức;

     g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

     h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

     i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    Trong trường hợp của bạn là người chưa thành niên phạm tội (dùng hung khí nguy hiểm là dao để chém người) thì pháp luật có quy định tại Chương 10 bộ luật hình sự về người chưa thành niên phạm tội như sau:

     - Người chưa thành niên phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của pháp luật.

    - Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội phải tuân thủ theo Điều 74 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

    "1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;
    2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định".

     - Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì Toà án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    23/10/2017, 10:11:36 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của ông tôi tư vấn như sau:

    Theo thông tin ông cung cấp, ông là chức viện Giáo dục Nghề nghiệp( trước đây gọi là Viện Nghiên cứu Khoa học Dạy nghề) thuộc Tổng cục GDNN, Bộ LĐTBXH, hiện đã có quyết định nghỉ hưu từ 01/7/2017( theo chế độ giảm biên Nđ 108) Từ 01/9/2008, ông được nâng lương lần cuối từ bậc 8 lên bậc 9(hs 4,98). Từ đó đến khi xin về hưu không được hưởng phụ cấp vượt khung, trong thời gian công tác ông đều hoàn thành nhiệm vụ, không vi phạm kỷ luật lao động.

    Căn cứ tại điểm 2 Mục III Thông tư Số 04/2005/TT-BNV Hướng dẫn chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ công chức, viên chức thì:“Phụ cấp thâm niên vượt khung được tính trả cùng kỳ l­ương hàng tháng của cán bộ, công chức, viên chức và được dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.”

    Như vậy, đáng lẽ trong thời gian công tác ông phải được hưởng phụ cấp này vì phụ cấp thâm niên vượt khung được tính trả cùng kỳ l­ương hàng tháng của cán bộ, công chức, viên chức và được dùng để tính đóng, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, nhưng ông không được lĩnh hoặc không đề nghị cơ quan ông chi trả hoặc cơ quan ông không tính cho ông. Đây là một thiếu sót lớn của cả hai bên.

    Căn cứ điểm 1 và 2 Mục 4 Thông tư Số 04/2005/TT-BNV quy định: “Thủ trưởng cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ, công chức, viên chức (cấp cơ sở) có trách nhiệm trao đổi với cấp ủy và Ban chấp hành Công đoàn cùng cấp thực hiện:

    1.1. Quyết định hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền quyết định theo phân cấp hiện hành mức hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung đối với cán bộ, công chức, viên chức thuộc biên chế trả ­ương của cơ quan, đơn vị.:……………..

    2. Thủ trưởng cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của cơ quan, đơn vị cơ sở có trách nhiệm:

    Kiểm tra kết quả thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung ở các cơ quan, đơn vị cơ sở thuộc phạm vi quản lý; giải quyết theo thẩm quyền những vướng mắc ở cơ quan, đơn vị cơ sở và tổng hợp báo cáo Bộ, ngành Trung ­ương (nếu thuộc Trung ­ương quản lý), ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ­ương (nếu thuộc địa ph­ương quản lý) kết quả thực hiện chế độ phụ cấp thâm niên vượt khung ở tất cả các cơ quan, đơn vị cơ sở thuộc phạm vi quản lý theo mẫu số 1 ban hành kèm theo Thông tư này.

    Hiện tại ông đã nghỉ hưu nên không thể lĩnh được khoản phụ cấp này nên ông có thể đề nghị cơ quan cũ của mình truy lĩnh. Theo đó, ông có thể đề nghị bằng văn bản tới Thủ trưởng cơ quan đơn vị trực tiếp quản lý mình trước đây để giảitruy lĩnh khoản phụ cấp ở trên, nếu cơ  quan không giải quyết hoặc giải quyết không thoả đáng ông có quyền khiếu nại tới thủ trưởng cơ quan cũ và có thể khiếu nại như trong đơn ông đã trình gửi chúng tôi, hoặc ông có thể khởi kiện việc này tại Toà án nhân có thẩm quyền để bảo vệ quyền lợi cho mình. Trên đây là nội dung trả lời của tôi cho vấn đề ông đang vướng mắc. Nếu có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/10/2017, 09:47:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp thì người bạn của bạn có hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản hoặc lừa đảo là hành vi vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người rồi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản đó, hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên thì mới phạm vào tội này, nếu dưới bốn triệu đồng thì phải hội đủ các điều kiện khác của điều luật như gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì mới phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Như vậy bạn có tố cáo người này vì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hoặc lừa đảo tại công an điều tra. Khi tố cáo bạn cần cung cấp đầy đủ thông tin, chứng cứ  để tiện cho việc điều tra, xử lý. Trong một số trường hợp, viện kiểm sát cũng có thể tiếp nhận đơn tố  cáo của bạn nhưng sau đó sẽ chuyển sang công an để điều tra, xác minh.

    Trường hợp vụ việc của bạn  mà cơ quan điều tra xác định không có dấu hiệu hình sự mà mang nhiều dấu hiệu của vụ tranh chấp thì bạn có thể làm đơn khởi kiện đến tòa án có thẩm quyền để được giải quyết tranh chấp. Trên đây là nội dung trả lời của tôi cho vấn đề bạn đang thắc mắc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/10/2017, 09:29:46 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, tôi tư vấn như sau:

    Tại điều 103 Bộ Luật Hình sự, các dấu hiệu cơ bản của tội đe dọa giết người là người phạm tội phải có hành vi làm cho người bị đe dọa lo sợ. Hành vi này được thể hiện dưới dạng hành động như lời nói, cử chỉ, cách nhìn, mài dao, lấy súng, lên đạn … với mục đích đe dọa. Hành vi đe dọa phải làm cho người bị đe dọa thực sự tin là mình có thể bị giết. Tuy nhiên, yếu tố này là khó xác định. Thông thường, hành vi đe dọa thường được cố ý để lộ cho người bị hại biết hoặc người khác nhìn thấy và nói lại cho người bị hại biết.

    Người đe dọa bạn có những lời nói đi quá giới hạn, chuẩn bị hung khí, hành hung bạn, đang thực hiện và khả năng sẽ thực hiện việc giết người thì có thể bị truy tố về tội giết người ở giai đoạn chuẩn bị hoặc phạm tội chưa đạt.

    Trường hợp của bạn nên trực tiếp đến công an điều tra để tố cáo; trường hợp biết chính xác địa chỉ của kẻ đe dọa thì phải cung cấp cho công an nơi kẻ đe dọa hành hung mình nơi sinh sống. Khi tố cáo bị đe dọa,  bạn cần cung cấp đầy đủ thông tin, chứng cứ  để tiện cho việc điều tra, xử lý. Trong một số trường hợp, viện kiểm sát cũng có thể tiếp nhận đơn tố  cáo của bạn nhưng sau đó sẽ chuyển sang công an để điều tra, xác minh. Trên thực tế, nhiều người đã bị  xét xử vì có những hành vi đe dọa giết người khác. Những trường hợp này thường bị xử với những mức án rất nghiêm khắc.

    Trên đây là nội dung trả lời của tôi cho vấn đề bạn đang thắc mắc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/10/2017, 08:50:36 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, tôi tư vấn như sau:

    Bạn mới xin việc ở một công ty, bạn đã thử việc 1 tháng thì được nhận làm, nhưng lương thử việc chỉ vỏn vẹn 1 triệu, ngày ký hợp đồng với mức lương 2,8 triệu đã trừ tiền cơm 400,000vnd. Theo quy định của Bộ luật lao động 2012 thì người sử dụng lao động và người lao động có thể thoả thuận về tiền lương trong thời gian thử việc nhưng phải đảm bảo ít nhất phải bằng 85% mức lương của công việc đó. Như vậy, Công ty (người sử dụng lao động) có hành vi trả lương cho người lao động trong thời gian thử việc thấp hơn 85% mức lương của công việc đó.Nếu vi phạm thì người sử dụng lao động có thể bị xử lý theo quy định tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP như sau: "Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi trả lương cho người lao động trong thời gian thử việc thấp hơn 85% mức lương của công việc đó và buộc trả đủ 100% tiền lương của công việc đó cho người lao động."

    Theo bạn trình bày hiện nay công ty bạn đang áp dụng mức lương làm việc theo hợp đồng thời vụ là 2.800.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, bạn không nói rõ công ty bạn đang làm việc tại địa bàn nào nên chưa thể xác định mức lương tối thiểu vùng tại địa bàn bạn làm việc.

    Điều 3 Nghị định 153/2016/NĐ-CP quy định mức lương tối thiểu vùng như sau:

    + Mức 3.750.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng I.

    + Mức 3.320.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng II.

    + Mức 2.900.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng III.

    + Mức 2.580.000 đồng/tháng, áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn thuộc vùng IV.

    Trường hợp người sử dụng lao động trả lương cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu vùng thì người sử dụng lao động sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 4 Điều 13 Nghị định 95/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 88/2015/NĐ-CP như sau:

    - Từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

    - Từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

    - Từ 50.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng với vi phạm từ 51 người lao động trở lên.

    Trong trường hợp này, công ty không đóng BHXH cho bạn, tức là đã vi phạm quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 17 Luật bảo hiểm xã hội 2014, cụ thể:

    “Điều 17. Các hành vi bị nghiêm cấm

    1. Trốn đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp.

    2. Chậm đóng tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp”

    Khi đó, công ty sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 122 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 như sau:

    “3. Người sử dụng lao động có hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 17 của Luật này từ 30 ngày trở lên thì ngoài việc phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và bị xử lý theo quy định của pháp luật, còn phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng; nếu không thực hiện thì theo yêu cầu của người có thẩm quyền, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước có trách nhiệm trích từ tài khoản tiền gửi của người sử dụng lao động để nộp số tiền chưa đóng, chậm đóng và lãi của số tiền này vào tài khoản của cơ quan bảo hiểm xã hội”. 

    Như vậy, khi công ty không đóng hoặc trốn đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 30 ngày trở lên thì sẽ phải đóng đủ số tiền chưa đóng, chậm đóng và phải nộp số tiền lãi bằng 02 lần mức lãi suất đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội bình quân của năm trước liền kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng. Bên cạnh đó, tùy từng trường hợp còn bị xử phạt hành chính.

    Để bảo vệ quyền lợi của mình, bạn có thể làm đơn khiếu nại gửi đến Giám đốc công ty, tổ chức Công đoàn để người sử dụng lao động xem xét lại các hành vi vi phạm ở trên. Trong trường hợp bạn không đồng ý với cách giải quyết của công ty thì bạn có thể khiếu nại lên Phòng Lao động – thương binh và xã hội cấp huyện nơi công ty đặt trụ sở. Trong trường hợp không giải quyết cho bạn hoặc giải quyết mà bạn không thấy thỏa đáng, bạn cũng có thể gửi đơn yêu cầu Tòa án cấp huyện nơi công ty đóng trụ sở yêu cầu Tòa giải quyết.

    Trên đây là nội dung trả lời của tôi cho vấn đề bạn đang thắc mắc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    20/10/2017, 08:53:57 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Những trường hợp công an được phép bắt người bao gồm:

    - Bắt bị can, bị cáo để tạm giam

    - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

    - Bắt người phạm tội quả tang

    - Bắt người phạm tội đang bị truy nã

    Cụ thể: bắt bị can, bị cáo để tạm giam là bắt người đã bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử để tạm giam phục vụ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.

    Bắt người trong trường hợp khẩn cấp là bắt người khi người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc sau khi thực hiện tội phạm người đó bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

    Bắt người phạm tội quả tang là bắt người khi người đó đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt;

    Bắt người phạm tội đang bị truy nã là bắt người phạm tội đang lẩn trốn nếu đã có lệnh truy nã của cơ quan điều tra.

    Với người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, người dân cũng có quyền bắt người. Khi bắt, người dân có quyền tước vũ khí, hung khí, giải ngay người bị bắt đến cơ quan công an, viện kiểm sát hoặc uỷ ban nhân dân nơi gần nhất.

    Theo Khoản 2, 3 Điều 80 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003, những trường hợp sau, công an phải có lệnh bắt mới được phép bắt người:

    - Bắt bị can, bị cáo

    - Bắt người trong trường hợp khẩn cấp

    Việc bắt người không được thực hiện vào ban đêm, trừ trường hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã.

    Về trường hợp bạn hỏi, bạn đang học lớp 9, là người chưa thành niên, nên việc bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên, người tiến hành tố tụng có thể bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên trong những trường hợp sau đây:

    - Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ do pháp luật quy định nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

    - Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ do pháp luật quy định nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.

    - Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam. Việc bắt người chưa thành niên chỉ được thực hiện vào ban ngày, trừ trường hợp không thể trì hoãn mới được thực hiện vào ban đêm. Khi bắt người chưa thành niên cần sự có mặt của cha, mẹ hoặc người đỡ đầu, người nuôi dưỡng họ.

    Trên đây là nội dung trả lời của tôi cho câu hỏi của bạn. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    19/10/2017, 09:18:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đầu tiên, có thể thấy với trường hợp của bạn có thể thấy người bán hàng qua mạng kia đã có hành vi chiếm đoạt tài sản khi bạn đã chuyển khoản, người này có được số tiền mà bạn chuyển đến và không gửi hàng cho bạn.

    Như vậy, có thể thấy người bán hàng trên mạng kia đã có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và bạn có thể làm đơn trình báo đến cơ quan Công an để được giải quyết. Và người này có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự tùy theo số tiền đã chiếm đoạt được từ bạn. Do bạn không nói rõ, số tiền mà bạn chuyển cho người kia là bao nhiêu nên chúng tôi chia thành hai trường hợp cụ thể như sau;

    + Nếu số tiền chiếm đoạt chưa đủ 2 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự thì người có hành vi này sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định tại Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, cụ thể như sau:

    “Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác

    1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Trộm cắp tài sản;

    b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;

    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

    d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác.

    + Nếu số tiền chiếm đoạt đủ 2 triệu đồng hoặc chưa đủ nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự thì người có hành vi này sẽ bị truy cứu trách nhiệm Hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Tuy nhiên, để truy tìm thông tin kẻ lừa đảo đôi khi rất khó khăn bởi kẻ lừa đảo ngày càng có những thủ đoạn tinh vi hơn, biết dấu thông tin để tránh chịu trách nhiệm trước pháp luật. Trong trường hợp cụ thể của bạn, nếu suy luận thì có thể thấy chủ tài khoản là đồng phạm với những kẻ lừa đảo bằng hình thức bán hàng qua mạng.

    Nhưng để chứng minh điều này đôi khi không dễ dàng,  vì thế khi giao dịch điện tử , người tiêu dùng nên cẩn thận. Nên chọn những địa chỉ bán hàng có uy tín và thông tin rõ ràng; có thể thỏa thuận giá cả qua mạng và xem hàng thực tế trước khi trả tiền hoặc có thể yêu cầu nhận hàng mới trả tiền để, nói cách khác là đừng "nắm đằng chuôi", tránh rủi ro “tiền mất tật mang”.

    Trên đây là tư vấn của tôi cho vấn đề bạn hỏi, nếu còn thắc mắc hoặc chưa hiểu thì bạn hãy liên lạc qua điện thoại với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    19/10/2017, 08:55:29 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Để xác định trách nhiệm của các bên liên quan, bạn cần xem xét kỹ các vấn đề như: Quy định của nhà trường về việc trông giữ xe của giáo viên như thế nào (theo quy chế, nội quy, quy định... do nhà trường ban hành);. Khi giáo viên gửi xe, bảo vệ có viết vé gửi xe không, có sự tiếp nhận về việc gửi giữ xe giữa giáo viên và bảo vệ không... Cụ thể:

    I. Về trách nhiệm của bảo vệ:

    Để xác định trách nhiệm của bảo vệ đối với việc mất xe và yêu cầu bảo vệ bồi thường thiệt hại, cần chứng minh được các yếu tố sau:

    1. Chỉ ra được căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự mà bảo vệ phải thực hiện:

    Nếu có căn cứ chứng minh rằng: Khi gửi xe, giữa bảo vệ và giáo viên đã thiết lập Hợp đồng gửi giữ tài sản; (theo quy định của Bộ luật Dân sự, đó là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, còn bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công). Theo đó, các bên có quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Dân sự về Hợp đồng gửi giữ tài sản. Trong đó, người giữ xe (bảo vệ) có nghĩa vụ: Bảo quản tài sản như đã thỏa thuận, trả lại tài sản cho bên gửi theo đúng tình trạng như khi nhận giữ; và phải bồi thường thiệt hại, nếu làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ, trừ trường hợp bất khả kháng (Điều 562 Bộ luật Dân sự).

    Thực tế, vé gửi xe được coi là giấy tờ chứng minh giữa các bên có hợp đồng gửi giữ. Do vậy, bạn cần có vé xe để chứng minh rằng mình đã gửi xe trong trường. Trong trường hợp không có vé xe nhưng bạn chứng minh được giữa bảo vệ và giáo viên đã có thỏa thuận gửi - giữ xe thông qua hành vi cụ thể thì cũng được coi là căn cứ phát sinh nghĩa vụ của bảo vệ với tư cách là người giữ tài sản (có thể có người làm chứng).

    2. Chứng minh được hậu quả thực tế đã xảy ra đồng thời chứng minh được lỗi của người bảo vệ: tức là chứng minh việc mất xe của bạn là có thực và do lỗi của người bảo vệ.

    Nếu bạn không làm rõ được những vấn đề nêu trên thì không thể chứng minh được bảo vệ đã vi phạm nghĩa vụ mà họ phải thực hiện đối với bạn. Do không có vi phạm nghĩa vụ nên đương nhiên không phát sinh trách nhiệm dân sự và cũng không có trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Nếu bạn chứng minh được bảo vệ đã vi phạm nghĩa vụ với đầy đủ các yếu tố nêu ở trên thì theo quy định thì người bảo vệ có trách nhiệm dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bạn.

    II. Về trách nhiệm của nhà trường:

    Trong trường hợp này, khi yêu cầu bồi thường thiệt hại, bạn cũng cần lưu ý vấn đề sau: Việc trông xe của bảo vệ chính là nhiệm vụ được nhà trường giao; hay việc trông xe là do bảo vệ tự làm, không liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ trong nhà trường.

    - Trường hợp thứ nhất: Nếu trong nhiệm vụ của bảo vệ tại nhà trường có nhiệm vụ trông xe cho cán bộ nhân viên thì trách nhiệm bồi thường cho bạn thuộc về nhà trường vì: Điều 618 Bộ luật Dân sự quy định về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra như sau: Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.

    - Trường hợp thứ hai: Nếu việc trông xe là do bảo vệ tự thực hiện, không phải là nhiệm vụ nhà trường giao thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bạn thuộc về bảo vệ (nếu chứng minh được như đã nêu ở trên).

    Trường hợp bạn còn thắc mắc hoặc vấn đề nào chưa rõ thì có thể liên lạc trực tiếp qua điện thoại để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    18/10/2017, 10:52:56 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Việc khởi kiện bạn đang hỏi được coi là vụ án dân sự. Theo khoản 1 Điều 68 Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015: "Đương sự trong vụ án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan".

    Trường hợp tại thời điểm người khởi kiện nộp đơn khởi kiện nếu người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt ở địa phương thì một số Toà án không đồng ý thụ lý vụ án, trả lại đơn khởi kiện vì cho rằng người khởi kiện không cung cấp được địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. 

    Tuy nhiên, tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định: “Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi đầy đủ và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho cơ quan, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.”
    Do đó, trong trường hợp không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tòa án sẽ không được đình chỉ giải quyết vụ án để trả hồ sơ vụ kiện như trước đây mà phải tiếp tục giải quyết vụ án theo thủ tục tố tụng chung đã được quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
    Như vậy, trong trường hợp tòa không thể xác định được nơi cư trú của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì tòa án có thể thông qua thủ tục niêm yết để xét xử vắng mặt. Hoặc tòa án có thể thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng khi có yêu cầu của các đương sự khác trong vụ án.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp về vấn đề bạn hỏi. Nếu còn vướng mắc bạn có thể lien hệ qua điện thoại để luật sư tư vấn.

  • Xem thêm     

    18/10/2017, 05:59:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hành vi đánh người gây thương tích là hành vi vi phạm pháp luật, tùy vào tính chất mức độ của hành vi đánh người, tỷ lệ thương tích của người bị hại thì người gây ra thương tích sẽ phải chịu trách nhiệm.

    Còn việc bạn ôm cho người khác đánh có thể nói đó là hành vi vi phạm pháp luật. việc ôm cho người khác đánh chỉ là hình thức đồng phạm hay có cấu thành yếu tố có tổ chức thì còn phải xem thêm các yếu tố như: trước khi đi đánh thì bạn và người đánh có bàn bạc với nhau không? có phân công, sắp đặt vai trò từng người không? Nếu có sự cấu kết chặt chẽ thông qua sự bàn bạc và phân công, sắp đặt vai trò từng người thì sẽ thuộc yếu tố có tổ chức và sẽ vẫn đủ yếu tố cấu thành tội  cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS 1999 sửa đổi, bổ sung dù tỷ lệ thương tật chưa đến 11%. Còn nếu không có sự cấu kết chặt chẽ thì sẽ không có yếu tố tổ chức nên sẽ chỉ cấu thành tội phạm nếu tỷ lệ thương tật của C >=11%.

    Căn cứ điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy định thì: " Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các tình tiết tăng nặng tại khoản 1 điều 104 Bộ luật Hình sự năm 1999 thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.

    Trường hợp, người gây ra thương tích không bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền tứ 500.000đồng đến 1.000.000 đồng theo điểm a, khoản 2, điều 7 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/07/2010 quy định về xử phạt vi phạm hành chính
    trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.

    Trên đây là nội dung trả lời trường hợp về vấn đề bạn hỏi. Nếu còn vướng mắc bạn có thể lien hệ qua điện thoại để luật sư tư vấn.

  • Xem thêm     

    18/10/2017, 11:37:59 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Công ty bạn có chi nhánh chính tại TPHCM và nhiều chi nhánh khác nằm ở các tỉnh thành trên toàn quốc. Hiện tại cần trích quỹ phòng chống thiên tai của nhân viên để nộp cho Quỹ phòng chống thiên tai và hiện tại bạn đang băn khoăn không biết thu tiền quỹ sẽ dựa trên địa điểm làm việc của nhân viên, chi nhánh ký hợp đồng lao động của nhân viên hay nơi nộp thuế tncn của nhân viên.

    Căn cứ theo khoản 1 và khoản 2 Điều 8 về Quản lý thu, kế hoạch thu nộp Quỹ của Nghị định số 94/2014 quy định:

    “1. Thủ trưởng tổ chức kinh tế hạch toán độc lập có trách nhiệm nộp Quỹ theo định mức được quy định tại Khoản 1 Điều 5 Nghị định này chuyển vào tài khoản của cơ quan quản lý Quỹ cấp tỉnh hoặc tài khoản cấp huyện do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền.

    2. Thủ trưởng cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thu của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, cán bộ, nhân viên trong lực lượng vũ trang thuộc phạm vi quản lý và chuyển vào tài khoản của cơ quan quản lý Quỹ cấp tỉnh hoặc vào tài khoản cấp huyện do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ủy quyền.”

    Như vậy, việc thu quỹ phòng chống thiên tai của công ty bạn sẽ căn cứ vào địa điểm có trụ sở chi nhánh ký hợp đồng lao động với nhân viên(chi nhánh hạch toán độc lập), nếu là chi nhánh phụ thuộc thì việc thu quỹ phòng chống thiên tai sẽ là địa điểm trụ sở chính của công ty.

    Nếu bạn có thắc mắc hay còn vấn đề gì chưa rõ thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    17/10/2017, 05:51:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, khi chị bạn đang làm tại đơn vị cũ là đang hưởng lương bậc 7, phụ cấp thâm niên là 10 % (hệ số trung cấp). Nhưng đến khi chuyển sang đơn vị mới đến bây giờ vẫn giữ nguyên mức đó và chưa có quyết định nâng lương và phụ cấp thâm niên. Có kiến nghị nhưng bên quản lý và kế toán trường trả lời là huyện sẽ giải quyết. Như vậy, bạn đang thắc mắc về vấn đề thẩm quyền giải quyết và chị bạn sẽ được giải quyết như thế nào ?

     

    Căn cứ điểm b2 khoản 1 điều 7 về chế độ nâng bậc lương Nghị định 204/2004 NĐ/CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

    b2) Các đối tượng xếp lương theo các ngạch loại B, loại C của bảng 2, bảng 3 và nhân viên thừa hành, phục vụ xếp lương theo bảng 4: Sau 2 năm (đủ 24 tháng) giữ bậc lương trong ngạch được xét nâng lên một bậc lương.”

    Chị gái bạn là giáo viên mầm non hệ trung cấp nên thuộc ngạch B của bảng 3 thì sau 2 năm giữ bậc lương trong ngạch được xét lên một bậc lương. Tức năm 2016 (đủ 24 tháng) chị gái bạn sẽ được nâng lên một bậc lương.

    Theo mục a2 điểm a khoản1 Điều 6 quy định về chế độ phụ cấp lương Nghị định 204/2004 NĐ/CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang..

    1. Phụ cấp thâm niên vượt khung:

    a) Mức phụ cấp như sau:

    a2) Các đối tượng xếp lương theo các ngạch loại B, loại C của bảng 2, bảng 3 và nhân viên thừa hành, phục vụ xếp lương theo bảng 4: Sau 2 năm (đủ 24 tháng) đã xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch thì được hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung bằng 5% mức lương của bậc lương cuối cùng trong ngạch đó; từ năm thứ ba trở đi mỗi năm được tính thêm 1%.”

    Theo quy định trên thì Chị gái bạn thuộc ngạch loại B của bảng 3. Sau 2 năm thì sẽ được hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung bằng 5% mức lương của bậc lương cuối cùng trong ngạch đó, từ năm thứ ba trở đi mỗi năm được tính thêm 1%. Vì thế năm 2016 chị gái bạn đã được hưởng phụ cấp thâm niên vượt khung bằng 5% mức lương của bậc lương cuối cùng ngạch đó. Đến năm 2017, sẽ được tăng thêm 1%.

    Vì kế toán trường không nhận quyết định nâng lương của chị gái bạn. Nên chị gái bạn có thể đến phòng giáo dục, phòng nội vụ của Uỷ Ban Huyện nơi chị gái bạn công tác và trình bày rõ sự việc để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    16/10/2017, 10:01:11 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn là giáo viên một trường truung học phổ thông tại Hà Tĩnh, vừa rồi vùng bị chịu ảnh hưởng của cơn bão số 10 gây thiệt hại về tài sản và gia đình bạn cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp. Qua đó cơ quan bạn đã phát động phong trào ủng hộ bão số 10 mỗi người một ngày lương.

     

    Như vây, căn cứ theo quy định tại điều 5 Nghị định số 94/2014/NĐ-CP về hành lập và quản lý Quỹ phòng, chống thiên tai, đối tượng và mức đóng góp Quỹ gồm:

    “Các tổ chức kinh tế hạch toán độc lập: Mức đóng góp bắt buộc một năm là hai phần vạn trên tổng giá trị tài sản hiện có tại Việt Nam theo báo cáo tài chính hàng năm nhưng tối thiểu 500 nghìn đồng, tối đa 100 triệu đồng và được hạch toán vào chi phí hoạt động sản xuất kinh doanh.

    Công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi đến hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật về lao động đóng góp như sau:

    a) Cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan, tổ chức, lực lượng vũ trang hưởng lương, cán bộ quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước đóng 1 ngày lương/người/năm theo mức lương cơ bản sau khi trừ các khoản thuế, bảo hiểm phải nộp;

    b) Người lao động trong các doanh nghiệp đóng 1 ngày lương/người/năm theo mức lương tối thiểu vùng;

    c) Người lao động khác, trừ các đối tượng đã được quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản này, đóng 15.000 đồng/người/năm.

    3. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp tự nguyện cho Quỹ.”

    Cũng theo Nghị định này, đối tượng được miễn, giảm, tạm hoãn đóng góp Quỹ phòng, chống thiên tai gồm:

    1. Đối tượng được miễn đóng góp:

    a) Thương binh, bệnh binh và những người được hưởng chính sách như thương binh;

    b) Cha đẻ, mẹ đẻ, vợ hoặc chồng của liệt sỹ;

    c) Quân nhân làm nghĩa vụ trong lực lượng vũ trang, hạ sĩ quan, chiến sĩ phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân đang hưởng phụ cấp sinh hoạt phí;

    d) Sinh viên, học sinh đang theo học tập trung dài hạn tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học, Dạy nghề;

    đ) Người khuyết tật hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 21% trở lên; người mắc bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của bệnh viện từ cấp huyện trở lên;

    e) Người đang trong giai đoạn thất nghiệp hoặc không có việc làm từ 6 tháng trong 1 năm trở lên;

    g) Thành viên hộ gia đình thuộc diện nghèo hoặc cận nghèo; thành viên thuộc hộ gia đình ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa; thành viên thuộc hộ gia đình bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, cháy nổ, tai nạn;

    h) Hợp tác xã không có nguồn thu;

    i) Tổ chức kinh tế hạch toán độc lập trong năm bị thiệt hại do thiên tai gây ra về tài sản, nhả xưởng, thiết bị; phải tu sửa, mua sắm với giá trị lớn hơn hai phần vạn tổng giá trị tài sản của tổ chức hoặc phải ngừng sản xuất kinh doanh từ 5 ngày trở lên.

    2. Đối tượng được giảm, tạm hoãn đóng góp:

    Tổ chức kinh tế hạch toán độc lập được miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp thì được xem xét giảm, tạm hoãn đóng góp Quỹ.”

    Theo quy định, bạn vẫn thuộc trường hợp phải đóng quỹ ủng hộ khắc phục sau cơn bão số 10. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan quyết định miễn, giảm, tạm hoãn đối với các đối tượng nêu trên. Việc xét miễn, giảm, tạm hoãn đóng góp Quỹ của địa phương được tiến hành mỗi năm một lần vào thời điểm giao chỉ tiêu kế hoạch thu Quỹ. Trường hợp miễn, giảm, tạm hoãn do thiệt hại thiên tai, tổ chức, cá nhân phải báo cáo thiệt hại và đề xuất chính quyền địa phương để tổng hợp gửi cơ quan có thẩm quyền xem xét miễn, giảm, tạm hoãn. Trường hợp đối tượng đã đóng góp tiền nộp vào Quỹ, nếu được xét miễn, giảm, tạm hoãn thì số tiền đã nộp được trừ vào số tiền đóng góp của năm sau.

    Và trước khi thu quỹ phòng chống thiên tai, quỹ bão trợ trẻ em, quỹ vì người nghèo, quỹ mái ấm công đoàn và Ủng hộ bão số 10. Thì cơ quan bạn cần thông báo trước cho cán bộ trong trường vì đây là các khoản tự nguyện phải đóng.

  • Xem thêm     

    13/10/2017, 08:32:44 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn phải hiểu rằng Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại, tức là không có sự chênh lệch quá đáng giữa hành vi phòng vệ với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại. Tương xứng không có nghĩa là thiệt hại do người phòng vệ gây ra cho người xâm hại phải ngang bằng hoặc nhỏ hơn thiệt hại do người xâm hại đe dọa gây ra hoặc đã gây ra cho người phòng vệ. Việc chống trả và dùng ná thun bắn nại nạn nhân là ông S có thể coi là hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Nếu bạn chỉ có hành vi khống chế để nạn nhân không thể tiếp tục thực hiện hành vi xâm phạm sức khỏe của bạn và em bạn thì đây là hành vi phòng vệ chính đáng và bạn sẽ không phải chịu trách nhiệm. Nhưng bạn đã có hành vi dùng ná thun bắn trả không tương xứng thì hành vi này hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Nếu bạn còn thắc mắc hoặc để làm sáng tỏ vấn đề của mình thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hon nhé.

  • Xem thêm     

    11/10/2017, 10:43:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 104 Bộ luật Hình sự có quy địn Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    Theo quy định của pháp luật, về cơ bản, thì hành vi cố ý gây thương tích sẽ bị khởi tố hình sự theo khoản 1 điều 104 BLHS nếu mức độ thương tích từ 11% đến 30%. Tuy nhiên, khi thực hiện hành vi gây thương tích mà có một trong các các điều kiện được quy định từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều 104 BLHS thì dù mức độ thương tích dưới 11% vẫn có thể bị khởi tố hình sự.

    Trong trường hợp của bạn và em bạn đã dùng ná thun bắn về phía ông S để gây thương tích cho nạn nhân. Theo quy định của pháp luật thì noá thun có thể được coi là “hung khí nguy hiểm”, cụ thể: Mục 2 phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:

    2.2. "Phương tiện nguy hiểm" là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.

    a. Về công cụ, dụng cụ

    Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn...

    b. Về vật mà người phạm tội chế tạo ra

    Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ...

    c. Về vật có sẵn trong tự nhiên

    Ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt...

    Mục 3 Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/05/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao quy định:

    3. Về một số tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 104 của BLHS

    3.1. Tình tiết "dùng hung khí nguy hiểm" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS

    "Dùng hung khí nguy hiểm" quy định tại điểm a khoản 1 Điều 104 của BLHS là trường hợp dùng vũ khí hoặc phương tiện nguy hiểm theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.2 mục 2 Phần I Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

    Căn cứ theo các quy định của pháp luật, trong trường hợp bạn và em trai bạn dùng ná thun bắn ông S để gây thương tích cho nạn nhân thì dù thương tích dưới 11%, nhưng nếu người bị hại có đơn yêu cầu thì Cơ quan công an có đủ căn cứ để khởi tố và xử lý hình sự đối với bạn và em trai bạn.

  • Xem thêm     

    11/10/2017, 03:11:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Số điện thoại của tôi nằm ở cuối bài tư vấn trong phần chữ ký đó, bạn phải chịu khó tìm chứ

  • Xem thêm     

    10/10/2017, 10:13:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo những thông tin bạn cung cấp, hành vi xông vào nhà đánh người có nhiều dấu hiệu cho thấy phạm tội  xâm phạm chỗ ở của công dân tại Điều 124 Bộ luật hình sự và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo quy định tại điều Điều 104 Bộ luật hình sự 1999.

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:.

    ………….”

    Như vậy, tùy vào hậu quả (tỉ lệ thương tích, phương tiện thực hiện hành vi,ý chí, mục đích ...) mà các đối tượng trên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích theo Bộ luật hình sự sửa đổi, bổ sung năm 2009 khi có đầy đủ dấu hiệu tội phạm. Hoặc xử phạt vi phạm hành chính theo điểm a khoản 2 điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, an toàn xã hội là: Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    Ngoài ra, dùng dao chém người đánh mình có thể là hành vi hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được quy định tại Điều 106 Bộ luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng(nếu có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên)

    Như vậy. hành vi mà bạn nêu đã xâm phạm rất nhiều quy định được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự các tội xâm phạm gia cư bất hợp pháp, cố ý gây thương tích, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đàng, tuỳ theo mức độ có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự. Trong trường hợp bạn còn thắc mắc hoặc vấn đề gì chưa hiểu thì hãy liên lạc trực tiếp với tôi để được  tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    10/10/2017, 11:55:24 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trước tiên, ta phải xác định rõ nguồn tiền ở đây thuộc về UBND tỉnh và nó thuộc quyền quản lý sử dụng của UBND tỉnh, sau đó ủy ban nhân dân tỉnh giao tiền cho ban chỉ huy quân sự tỉnh để chi trả cho diễn tập ở cấp xã (bồi thường cơ sở vật chất...). Như vậy, tiền nhận được để chi trả cho diễn tập cuối cùng thuộc về UBND cấp xã, số tiền chiếm đoạt sẽ được trao trả cho UBND cấp xã và cấp xã phải có trách nhiệm trả lại số tiền này cho ban chỉ huy quân sự tỉnh và ban chỉ huy quân sự tỉnh phải trả lại cho UBND cấp tỉnh để chuyển vào ngân sách nhà nước.

75 Trang «<61626364656667>»