Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

47 Trang «<14151617181920>»
  • Xem thêm     

    19/12/2019, 05:22:01 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định, khi người lao động và công ty cũ chấm dứt hợp đồng thì đương nhiên mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên cũng chấm dứt. Do đó, công ty cũ sẽ không thể ngăn cản bạn chuyển sang làm cho các công ty mới, trừ khi bạn và công ty cũ không có cam kết về việc bảo vệ bí mật kinh doanh, công nghệ như quy định nêu trên.

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 04:58:21 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đã trả lời bạn rồi

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 10:47:33 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Tại Khoản 6 Điều 42 Quyết định 595/QĐ-BHXH năm 2017 quy định:

    6. Người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì đơn vị và người lao động không phải đóng BHXH, BHTN, BHTNLĐ, BNN, thời gian này được tính là thời gian đóng BHXH, không được tính là thời gian đóng BHTN và được cơ quan BHXH đóng BHYT cho người lao động.

    Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được ghi trên sổ BHXH theo mức tiền lương đóng BHXH của tháng trước khi nghỉ việc hưởng chế độ thai sản. Trường hợp trong thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản người lao động được nâng lương thì được ghi theo mức tiền lương mới của người lao động từ thời điểm được nâng lương.

    Theo đó, bạn thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản của bạn vẫn được tính là thời gian đóng bảo hiểm xã hội bởi cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm đóng bảo hiểm cho người lao động trong thời gian này. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội là điều kiện quan trọng để hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.

    Trường hợp này, thời gian đóng bảo hiểm xã hội ghi trên sổ bảo hiểm xã hội là căn cứ để tính hưởng chế độ bảo hiểm xã hội chứ không phải thời gian đóng thực tế. Do đó, việc sổ bảo hiểm xã hội không ghi thời gian đóng bảo hiểm xã hội trong thời gian bạn nghỉ chế độ thai sản là ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của bạn.

    Bạn có thể khiếu nại lên công ty và cơ quan bảo hiểm xã hội về việc ghi sai thời gian đóng bảo hiểm xã hội trên sổ bảo hiểm xã hội để được điều chỉnh chính xác, bạn nộp kèm theo đơn khiếu nại là các tài liệu, chứng cứ chứng minh việc bạn bạn nghỉ thai sản.

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 10:34:07 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Thời gian bạn thử việc chưa phải là hợp đồng lao động. Trong khi đó, theo Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là những người làm việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng trở lên. Sau thời gian thử việc mà công ty không ký hợp đồng lao động, cũng không thông báo cho bạn về kết quả thử việc, công ty vẫn giao việc cho bạn làm thì đương nhiên hợp đồng lao động giữa bạn và công ty được xác lập. Thời gian bạn làm việc kể từ khi hết thời hạn thử việc gồm 2 tháng thì Công ty phải thực hiện chế độ đóng BHXH bắt buộc cho bạn.

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 10:23:02 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định, khi HĐLĐ chấm dứt thì quyền và nghĩa vụ của hai bên cũng chấm dứt luôn. Vì vậy, ngay cả trường hợp người lao động (NLĐ) ký vào văn bản “cam kết không làm việc cho đối thủ cạnh tranh trong vòng 2 năm sau khi nghỉ việc”, người sử dụng lao động (NSDLĐ) cũng không có cơ sở để yêu cầu bồi thường nếu lao động đó vẫn đi làm việc cho một NSDLĐ khác.

    Theo quy định tại Điều 16 Bộ Luật Lao động thì bạn có quyền làm việc cho bất kỳ NSDLĐ nào mà pháp luật không cấm…. Thậm chí, theo Khoản 3 Điều 30 Bộ Luật Lao động, ngay tại thời điểm đang làm việc (thời điểm HĐLĐ đã ký với công ty vẫn còn hiệu lực), bạn vẫn có quyền ký thêm một hoặc nhiều HĐLĐ với NSDLĐ khác, miễn là bảo đảm được việc thực hiện đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng đã giao kết. Về cam kết không làm việc cho bất kỳ công ty có chức năng tương ứng nào khác thì Luật lao động chỉ quy định về việc: "Khi người lao động làm việc có liên quan trực tiếp đến bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ theo quy định của pháp luật, thì người sử dụng lao động có quyền thỏa thuận bằng văn bản với người lao động về nội dung, thời hạn bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, quyền lợi và việc bồi thường trong trường hợp người lao động vi phạm" (Khoản 2 Điều 23 Bộ luật lao động 2012). Vì vậy, bạn có nghĩa vụ bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ nhưng công ty không có quyền hạn chế việc bạn làm việc tại các công ty khác trong cùng lĩnh vực.

    Như vậy, nếu trường hợp cả bạn và Công ty A đều tự nguyện xác lập cam kết (thỏa thuận) không làm việc cho Công ty B thì điều này được coi là hợp pháp. Bởi, bạn có quyền tự do lao động, tuy nhiên chính bạn là người lao động đã từ bỏ quyền của mình bằng thỏa thuận trên thì bạn phải có nghĩa vụ tuân theo thỏa thuận và phải chịu chế tài (bồi thường) nếu vi phạm.

    Sau khi bạn nghỉ việc tại công ty cũ thì thỏa thuận cấm làm việc cho công ty B chỉ có hiệu lực nếu được xác lập bằng một văn bản độc lập, song song với hợp đồng lao động. Còn nếu trường hợp được ghi nhận luôn trong hợp đồng lao động thì sau khi bạn nghỉ việc, vô hình chung thỏa thuận này cũng vô hiệu bởi hợp đồng lao động đã hết hiệu lực (chấm dứt).

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 10:09:50 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ khoản 5 Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 quy định:“5. Thời gian đóng bảo hiểm xã hội là thời gian được tính từ khi người lao động bắt đầu đóng bảo hiểm xã hội cho đến khi dừng đóng. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội không liên tục thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội là tổng thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội”.

    Theo quy định tại khoản  Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì điều kiện được hưởng chế độ thai sản:  “phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi”.

    Do đó, nếu tính thời gian 12 tháng trước khi sinh (từ 3/12/2018 đến 3/12/2019) thì thời gian đóng bảo hiểm xã hội của bạn là tổng thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019 là 6 tháng trong thời gian 12 tháng trước khi sinh. Như vậy, bạn đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản.

  • Xem thêm     

    16/12/2019, 09:02:41 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Điều 28 Luật bảo hiểm xã hội 2014 về điều kiện hưởng chế độ thai sản như sau :

    “Điều 31. Điều kiện hưởng chế độ thai sản

    1. Người lao động được hưởng chế độ thai sản khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Lao động nữ mang thai;

    b) Lao động nữ sinh con;

    ...

    2. Người lao động quy định tại các điểm b, c và d khoản 1 Điều này phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 06 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi.

    ...”

    Như vậy, điều kiện để bạn được hưởng chế độ thai sản là bạn phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh; mà bạn đã đóng từ tháng 9/2018 đến nay cho nên bạn sẽ được hưởng chế độ thải sản theo quy định của pháp luật.

    Tại khoản 3, Điều 20 về chế độ tập sự Nghị định 29/2012/NĐ-CP Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức:“Thời gian nghỉ sinh con theo chế độ bảo hiểm xã hội và thời gian ốm đau từ 03 ngày trở lên, thời gian bị tạm giam, tạm giữ, tạm đình chỉ công tác theo quy định của pháp luật không được tính vào thời gian tập sự”

    Theo đó, khi chưa hết thời gian tập sự mà nghỉ sinh con thì thời gian nghỉ sinh đó không được tính vào thời gian tập sự. Theo đó, thời gian tập sự không bị kéo dài mà vẫn giữ nguyên, tuy nhiên thời gian nghỉ sinh không được tính vào thời gian tập sự và khi hết thời gian nghỉ thai sản, cán bộ công chức sẽ phải hoàn thành thời gian tập sự còn thiếu.

    Như vậy, thời gian bạn nghỉ chế độ thai sản sẽ không được tính vào thời gian tập sự. Do đó, sau khi hết thời gian nghỉ thai sản, bạn sẽ phải hoàn thành khoảng thời gian tập sự còn lại.

  • Xem thêm     

    16/12/2019, 08:49:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 29 Bộ luật Lao động 2012 có quy định về kết thúc thời gian thử việc như sau:

    “1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.

    2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.”

    Như vậy, sau khi kết thúc quá trình thử việc, người sử dụng lao động phải ký kết hợp đồng lao động với người lao động. Nếu sau khi kết thúc thời gian thử việc mà người lao động không ký kết hợp đồng lao động, không thông báo cho người lao động về kết quả thử việc thì đương nhiên người lao động được nhận làm việc chính thức. Tuy nhiên, pháp luật không có quy định trường hợp đương nhiên được nhận vào làm việc sẽ tương ứng với loại hợp đồng nào. Việc xác định loại hợp đồng nào phải căn cứ vào thỏa thuận tại hợp đồng thử việc để biết trường hợp sau khi thử việc đạt yêu cầu thì hai bên sẽ ký hợp đồng lao động loại gì, dùng làm cơ sở xác định trách nhiệm thực hiện hợp đồng lao động đã được xác lập đương nhiên sau thời gian thử việc.

    Trong trường hợp này của bạn, sau thời gian thử việc mà công ty không ký hợp đồng lao động, cũng không thông báo cho bạn về kết quả thử việc, công ty vẫn giao việc cho bạn làm thì đương nhiên hợp đồng lao động giữa bạn và công ty được xác lập. Việc công ty quyết định cho bạn thôi việc mà không có căn cứ, không tuân thủ thời gian báo trước là đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật.

  • Xem thêm     

    08/12/2019, 09:36:42 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ quy định tại khoản 1, điều 34 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014:

    “Điều 34. Thời gian hưởng chế độ khi sinh con

    1. Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.

    Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.”

    Mặt khác, căn cứ quy định tại điểm a khoản 3.3 Điều 3 Công văn số 1477/BHXH-CSXH năm 2013 có quy định về Thời gian tính hưởng nghỉ sinh con như sau:

    “a. Thời gian tính hưởng chế độ thai sản của lao động nữ khi sinh con được tính kể từ ngày lao động nữ thực tế nghỉ việc để sinh con theo quy định của Bộ luật Lao động. Trường hợp nghỉ việc trước khi sinh con hơn 02 tháng thì được tính từ thời điểm đủ 02 tháng trước khi sinh con.”

    Như vậy, theo quy định trên, thời gian nghỉ hưởng chế độ thai sản đối với lao động nữ trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng, trường hợp lao động nữ nghỉ việc trước khi sinh con hơn 2 tháng thì được tính từ thời điểm đủ 02 tháng trước khi sinh con.

    Theo như thông tin bạn cung cấp, thời điểm dự sinh của bạn là vào đầu tháng 9/2018 nhưng bạn có xin công ty nghỉ hưởng thai sản từ ngày 28/9/2019. Với trường hợp của bạn thì bạn vẫn được hưởng chế độ thai sản theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 nhưng thời gian bạn được tính để hưởng chế độ trước sinh là không quá 02 tháng. Do đó, bạn nghỉ hơn 2 tháng trước sinh thì được tính từ thời điểm đủ 02 tháng trước khi sinh con.

    Bạn nghỉ thai sản trước sinh quá 2 tháng vẫn đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản nếu đáp ứng điều kiện hưởng theo quy định tại Điều 31 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014. Số tháng bạn nghỉ quá sẽ được tính là không lương, còn thời điểm để tính cho bạn hưởng chế độ không quá 2 tháng.

  • Xem thêm     

    04/12/2019, 10:56:55 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Không vấn đề gì!

  • Xem thêm     

    04/12/2019, 10:55:43 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Thứ nhất, về quyền chấm dứt quan hệ lao động khi đang trong thời gian thử việc.

    “Điều 29. Kết thúc thời gian thử việc

    1. Khi việc làm thử đạt yêu cầu thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động.

    2. Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận.”

    Như vậy, khi đang trong thời gian thử việc (chưa ký hợp đồng lao động chính thức) bạn có quyền nghỉ việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng thử việc.

    Thứ hai, về bồi thường chi phí đào tạo

    Căn cứ quy định tại Điều 62 Bộ luật lao động năm 2012:

    "Điều 62. Hợp đồng đào tạo nghề giữa người sử dụng lao động, người lao động và chi phí đào tạo nghề

    1. Hai bên phải ký kết hợp đồng đào tạo nghề trong trường hợp người lao động được đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề, đào tạo lại ở trong nước hoặc nước ngoài từ kinh phí của người sử dụng lao động, kể cả kinh phí do đối tác tài trợ cho người sử dụng lao động.

    Hợp đồng đào tạo nghề phải làm thành 02 bản, mỗi bên giữ 01 bản.

    2. Hợp đồng đào tạo nghề phải có các nội dung chủ yếu sau đây:

    a) Nghề đào tạo;

    b) Địa điểm đào tạo, thời hạn đào tạo;

    c) Chi phí đào tạo;

    d) Thời hạn người lao động cam kết phải làm việc cho người sử dụng lao động sau khi được đào tạo;

    đ) Trách nhiệm hoàn trả chi phí đào tạo;

    e) Trách nhiệm của người sử dụng lao động.

    3. Chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi có chứng từ hợp lệ về chi phí trả cho người dạy, tài liệu học tập, trường, lớp, máy, thiết bị, vật liệu thực hành, các chi phí khác hỗ trợ cho người học và tiền lương, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người học trong thời gian đi học. Trường hợp người lao động được gửi đi đào tạo ở nước ngoài thì chi phí đào tạo còn bao gồm chi phí đi lại, chi phí sinh hoạt trong thời gian ở nước ngoài."

    Theo đó, cam kết đào tạo phải được tách thành văn bản riêng, bạn đọc kỹ lại điều khoản ràng buộc và những nội dung cam kết trong văn bản đó để xác định căn cứ phát sinh trách nhiệm. Nếu còn thắc mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, bạn hãy liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    04/12/2019, 10:46:16 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại khoản 2 Điều 96 Luật BHXH hiện hành, khi tham gia BHXH, người lao động sẽ được cấp sổ BHXH để theo dõi việc đóng, hưởng, cũng như làm cơ sở giải quyết các chế độ.

    Về nguyên tắc, mỗi cá nhân chỉ có 01 sổ bảo hiểm tương ứng với 01 số BHXH. Tuy nhiên, do quá trình lao động làm nhiều công việc, tại nhiều nơi khác nhau nên một cá nhân có thể có nhiều sổ bảo hiểm.

    Về mặt hình thức, người lao động có thể có nhiều sổ BHXH nhưng xét về bản chất, mọi thông tin BHXH của người lao động như thời gian đóng, nơi đóng, mức đóng,... đều được ghi nhận theo 01 số BHXH.

    Người lao động có thể dễ dàng tra cứu trực tuyến các thông tin này trên hệ thống điện tử theo số chứng minh nhân dân, hoặc đến cơ quan BHXH nơi tham gia.

    Hiện nay, khi giải quyết các chế độ BHXH, cơ quan bảo hiểm đều yêu cầu người lao động cung cấp sổ BHXH. Chính vì vậy, khi có nhiều sổ khác nhau, người lao động phải làm thủ tục gộp sổ hoặc hủy bỏ sổ cũ. Trường hợp của bạn nên thực hiện thủ tục hủy sổ BHXH đang có trên hệ thống của cơ quan BHXH

    Vì khi hủy sổ BHXH thì quãng thời gian tham gia BHXH trước đây của bạn sẽ bị hủy và bạn không còn được hưởng chế độ với quãng thời gian đóng BHXH này nữa. Do đó, bạn nên suy nghĩ về việc hủy sổ BHXH của mình và để bảo vệ quyền lợi của mình bạn có thể báo mất sổ BHXH cũ để được cấp lại sổ BHXH mới với thời gian đã đóng BHXH được bảo lưu. Tuy nhiên, cơ quan BHXH chỉ làm thủ tục hủy sổ BHXH cũ trong trường hợp người lao động có đơn (mẫu D01-TS) cam kết không thừa nhận quá trình tham gia của mình do không làm việc tại đơn vị đó (thường là do bị người khác lạm dụng hồ sơ mang tên mình để xin việc hoặc để trục lợi).

  • Xem thêm     

    26/11/2019, 11:39:48 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo Điểm b Khoản 1 Điều 2 Luật bảo hiểm xã hội 2014 quy định người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bao gồm:

    “b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;”

    Theo quy định trên, trường hợp bên bạn có nhận sinh viên thực tập thời gian 03 tháng làm việc theo hợp đồng lao động thời vụ có thời hạn từ đủ 1 tháng trở lên thì thuộc đối tượng đóng BHXH bắt buộc. Mức lương đóng BHXH không được thấp hơn mức lương tối thiểu vùng tại thời điểm đóng.

    Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2; Khoản 3, Điều 85; Khoản 1, Điều 124 Luật BHXH năm 2014 thì người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 1 tháng đến dưới 3 tháng (từ ngày 1/1/2018) thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, người lao động không làm việc và không hưởng tiền lương từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng thì không đóng BHXH tháng đó. Do đó, người lao động làm việc 1 tháng dưới 14 ngày tại công ty bạn không phải đóng BHXH.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 10:46:35 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Khoản 2 Điều 47 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể là:

    “Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày”.

    Mặt khác, theo quy định của BLLĐ 2012 thì việc trả lương được thực hiện theo nguyên tắc tại Điều 96 Bộ luật lao động:

    - Người lao động được trả lương trực tiếp, đầy đủ và đúng thời hạn.

    - Trường hợp đặc biệt không thể trả lương đúng thời hạn thì không được chậm quá 01 tháng và người sử dụng lao động phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng lãi suất huy động tiền gửi do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm trả lương.

    Theo các quy định trên thì phía công ty có những sai phạm sau:

    + Công ty có hiện tượng nợ lương, trả lương không đầy đủ và đúng hạn  , có tình trạng nợ lương nhân viên (Thời điểm là công ty còn nợ 09 tháng lương,).

    + khi chấm dứt hợp đồng lao động thì phía công ty cũng phải thanh toán đầy đủ tiền lương cho nhân viên nhưng công ty không trả lương đầy đủ cho nhân viên trong một thời gian xác định biểu hiện ở việc bạn không nhận được văn bản nào từ ban lãnh đạo nói về thời gian trả lương mà chỉ nghe câu trả lời từ miệng của một chị làm bộ phận hành chính nói là công ty sẽ trả lương dần, mỗi tháng trả từ 2 đến 3 triệu. Những nhân viên nghỉ việc trước cũng đều chỉ nhận được câu trả lời tương tự và có tháng được trả khoảng 2 triệu, tháng không được trả.  

    Như vậy, trước hết chúng tôi xác định tranh chấp giữa bạn (với công ty về vấn đề trả lương là tranh chấp lao động tập thể về quyền nên với những vi phạm của công ty đã kể trên thì đầu tiên bạn có thể gửi đơn đến công ty yêu cầu công ty thanh toán nợ lương và đưa ra một thời hạn nhất định để công ty trả nợ trong thời hạn đó. Nếu hết thời hạn mà công ty vẫn không trả thì bạn có quyền làm đơn gửi ra phòng lao động thương binh xã hội nơi công ty có trụ sở để yêu cầu giải quyết.

    Trong trường hợp bạn không đồng ý với quyết định phòng lao động thương binh xã hội hoặc quá thời hạn mà không giải quyết thì bạn có quyền nộp hồ sơ khởi kiện kiện tại Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện) nơi công ty có trụ sở. Kèm theo đơn khởi kiện bạn phải chuẩn bị những tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của bạn là có căn cứ và hợp pháp như hợp đồng ký giữa bạn và những người lao đông khác trong công ty, tài khoản ngân hàng của bạn nếu công ty trả tiền lương thông qua thẻ ngân hàng.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 10:36:52 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hợp đồng khoán việc toàn bộ là hợp đồng, trong đó, bên giao khoán trao cho bên nhận khoán toàn bộ chi phí, bao gồm cả chi phí vật chất lẫn chi phí lao động có liên quan đến các hoạt động để hoàn thành công việc. Trong khoản tiền người giao khoán trả cho người nhận khoán bao gồm chi phí vật chất, công lao động và lợi nhuận từ việc nhận khoán.

    Căn cứ theo quy định tại Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội 2014 thì người nhận khoán việc không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc, do đó, trong trường hợp giao kết hợp đồng khoán việc (hợp đồng dịch vụ - không phải hợp đồng lao động) thì các bên không phải tham gia BHXH bắt buộc theo quy định.

    Hiện nay, nhiều doanh nghiệp lựa chọn cách ký kết hợp đồng khoán việc với người lao động để tránh không phải đóng BHXH, BHYT, tuy nhiên, cần phải xem xét bản chất công việc để ký kết hợp đồng phù hợp, tránh xảy ra tình trạng ký kết hợp đồng sai quy định, dẫn đến xử phạt hành chính.

    Trong trường hợp của công ty bạn, nếu công việc của người lao động vẫn chấm công 8 tiếng/ngày và làm 6 ngày/tuần. Do đó, đã có quan hệ lao động ở đây; tức nghĩa có hành vi lao động và có trả lương trên thực tế. Chính vì vậy, công ty bạn cần phải ký kết hợp đồng với người lao động phụ thuộc vào tính thường xuyên, liên tục của công việc theo Khoản 1 Điều 22 Bộ luật Lao động 2012. Và nếu hợp đồng lao động có thời hạn từ 03 tháng trở lên, công ty bạn phải tiến hành kí kết hợp đồng lao động dưới hình thức văn bản với người lao động theo Điều 16 Bộ luật Lao động 2012.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 10:29:54 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp bạn hỏi khi bạn chuyển đến giảng dạy tại xã đặc biệt khó khăn từ 8/2016 đến nay.

    Theo Điều 6 Nghị định 76/2019/NĐ-CP quy định về trợ cấp lần đầu nhận công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn quy định khi nhận công tác lần đầu ở cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn được hưởng trợ cấp…

    Cũng theo Điều 6 Nghị định 116/2010/NĐ-CP quy định tại Điều 2 Nghị định này đến công tác ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn từ 3 năm trở lên đối với nữ và từ 5 năm trở lên đối với nam được hưởng trợ cấp …

    Căn cứ Khoản 1 Điều 156 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định:“Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng từ thời điểm bắt đầu có hiệu lực. Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng đối với hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực. Trong trường hợp quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trở về trước thì áp dụng theo quy định đó.”

    Theo Nghị định 116/2010/NĐ-CP thì bạn phải công tác đủ 5 năm mới được hưởng trợ cấp lần đầu, nhưng Nghị định 76/2019/NĐ-CP có hiệu lực thi hành từ 01/12/2019 và NĐ 116/2010 không còn hiệu lực thi hành thì bạn vẫn được hưởng trợ cấp lần đầu bởi thời điểm tính hiệu lực bạn được trợ cấp lần đầu được áp dụng Nghị định 116/2010/NĐ-CP vì Văn bản quy phạm pháp luật được áp dụng hành vi xảy ra tại thời điểm mà văn bản đó đang có hiệu lực theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    15/11/2019, 11:42:07 SA | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Không vấn đề gì bạn nhé

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 06:11:58 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động quy định, người sử dụng lao động phải đáp ứng đủ các điều kiện khi sử dụng người lao động làm thêm giờ, như sau: Phải được người lao động đồng ý; phải bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 50% số giờ làm việc bình thường trong 1 ngày, trường hợp áp dụng quy định làm việc theo tuần thì tổng số giờ làm việc bình thường và số giờ làm thêm không quá 12 giờ trong 1 ngày; không quá 30 giờ trong 1 tháng và tổng số không quá 200 giờ trong 01 năm, trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định được làm thêm giờ không quá 300 giờ trong 1 năm; sau mỗi đợt làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ.

    Nếu sự việc đúng như bạn phản ánh, thì doanh nghiệp huy động người lao động làm thêm giờ vào một ngày lễ, không phải là trường hợp làm thêm giờ nhiều ngày liên tục trong tháng, không phải là trường hợp bắt buộc người sử dụng lao động phải bố trí để người lao động được nghỉ bù cho số thời gian đã không được nghỉ, do đó việc doanh nghiệp áp dụng quy định Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động, được hướng dẫn tại Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP trong trường hợp cụ thể này là không đúng.

    Điểm b, Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP hướng dẫn về thời gian nghỉ bù quy định tại Điểm c, Khoản 2, Điều 106 Bộ luật Lao động như sau: Trường hợp không bố trí nghỉ bù đủ số thời gian thì phải trả lương làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 của Bộ luật Lao động. Quy định này có thể gây hiểu lầm khi áp dụng, có quan điểm cho rằng nếu bố trí nghỉ bù đủ số thời gian làm thêm giờ thì không phải trả lương làm thêm giờ theo quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động.

    Trường hợp có quan điểm khác nhau về việc áp dụng Điểm b, Khoản 3, Điều 4 Nghị định số 45/2013/NĐ-CP, căn cứ Khoản 2, Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn, cụ thể, áp dụng quy định tại Điều 97 Bộ luật Lao động để làm căn cứ tính, trả tiền lương làm thêm giờ cho người lao động.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 06:05:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo Điêu 104, BLLD 2012 quy định về thời giờ làm việc bình thường như sau:

    1. Thời giờ làm việc bình thường không quá 08 giờ trong 01 ngày và 48 giờ trong 01 tuần.

    2. Người sử dụng lao động có quyền quy định làm việc theo giờ hoặc ngày hoặc tuần; trường hợp theo tuần thì thời giờ làm việc bình thường không quá 10 giờ trong 01 ngày, nhưng không quá 48 giờ trong 01 tuần .

    Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ.

    3. Thời giờ làm việc không quá 06 giờ trong 01 ngày đối với những người làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 6 và Khoản 1 Điều 7 Thông tư số 23/2015/TT-BLĐTBXH thì, tiền lương để tính tiền làm thêm giờ cho người lao động là tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ, mà theo Khoản 1 Điều 3 và Khoản 1 Điều 4 Thông tư này thì tiền lương tháng được trả cho một tháng làm việc xác định trên cơ sở HĐLĐ, bao gồm mức lương theo công việc hoặc theo chức danh trong thang lương, bảng lương do người sử dụng lao động xây dựng cộng với phụ cấp lương (nếu có).

    Từ đó có thể hiểu rằng, tiền lương để tính tiền làm thêm giờ cho người lao động là tiền lương giờ thực trả của ngày làm việc bình thường được xác định trên cơ sở tiền lương thực trả theo công việc đang làm của tháng mà người lao động làm thêm giờ, bao gồm cả mức lương theo công việc hoặc theo chức danh (lương chính) cộng với phụ cấp có tính chất lương (nếu có) đã ghi trong HĐLĐ. Do đó, trong trường hợp của bạn thì Công ty phải trả 150% so với tiền lương giờ thực trả của ngày bình thường theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    14/11/2019, 05:48:52 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại Bộ luật lao động thì tiên lương chỉ bị trừ vì những lý do như sau:

    Điều 101. Khấu trừ tiền lương

    1. Người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động để bồi thường thiệt hại do làm hư hỏng dụng cụ, thiết bị của người sử dụng lao động theo quy định tại Điều 130 của Bộ luật này.

    2. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình.

    3. Mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương hằng tháng của người lao động sau khi trích nộp các khoản bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, thuế thu nhập.

    Như vậy, nếu không phải là trách nhiệm vật chất về bôi thường thiệt hại, trích đóng BHXH, BHYT, BHTN và công đoàn phí thì không được trừ lương của người lao động.

47 Trang «<14151617181920>»