Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<13141516171819>»
  • Xem thêm     

    11/02/2017, 04:39:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về năng lực trách nhiệm hình sự như sau:

    "Điều 13. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự

    1. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự; đối với người này, phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.

    2. Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án, thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự.".

    Như vậy, đối chiếu với quy định pháp luật trên thì tại thời điểm thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, đối tượng G không bị "mất khả năng nhận thức" mà chỉ bị hạn chế khả năng nhận thức. Vì vậy, đối tượng G sẽ không được áp dụng quy định tại Điều 13 BLHS nêu trên để loại trừ trách nhiệm hình sự.

    Ngoài ra, Điều 46 Bộ luật hình sự quy định: "Điều 46. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

    1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
    ...
    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
    ....".

    Như vậy, khi thực hiện hành vi phạm tội mà đối tượng phạm tội bị hạn chế khả năng nhận thức thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.

    Như vậy, trong vụ việc nêu trên, theo kết luận giám định thì bệnh của G chỉ làm hạn chế khả năng nhận thức và điều kiển hành vi nên G vẫn bị xử lý về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS và được xem xét áp dụng quy định tại điểm n, khoản 1, Điều 46 BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự khi lượng hình.

  • Xem thêm     

    11/02/2017, 09:31:44 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật đất đai và Bộ luật dân sự hiện hành quy định chỉ có chủ sở hữu tài sản hoặc người được chủ sở hữu tài sản ủy quyền mới được quyền định đoạt tài sản.Theo thông tin bạn nêu thì giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vẫn đang đứng tên chủ sử dụng trước đây, chưa sang tên cho bố mẹ bạn và bố mẹ bạn đã qua đời. Vì vậy, về mặt pháp lý thì chủ sử dụng đất hợp pháp vẫn là chủ đất cũ.

    Nếu bạn muốn chuyển nhượng thửa đất đó cho người khác thì có thể liên hệ với chủ đất cũ để hủy bỏ giấy tờ mua bán với bố mẹ bạn trước đây và ký lại hợp đồng có công chứng từ chủ đất cũ sang trực tiếp cho người mua mới, người mua mới sẽ thanh toán tiền cho bạn hoặc bạn cũng có thể yêu cầu chủ đất cũ lập văn bản ủy quyền có công chứng để ủy quyền cho bạn toàn quyền định đoạt tài sản đó. Căn cứ vào văn bản ủy quyền, bạn có thể chuyển nhượng cho bên thứ ba.

    Nếu chủ cũ không hợp tác thì bạn chỉ còn cách là khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để buộc chủ cũ phải hoàn tất thủ tục để sang tên nhà đất đó cho anh em bạn hoặc thỏa thuận sang tên cho bên thứ ba.

  • Xem thêm     

    11/02/2017, 08:47:03 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định tại Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình thì "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.".

    - Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    - Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung. Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất mà vợ chồng em gái bạn đang quản lý, sử dụng là tài sản đứng tên mẹ chồng em gái bạn trên các giấy tờ, sổ sách của chính quyền địa phương. Mẹ chồng của em gái bạn vẫn chưa có văn bản, cũng chưa làm thủ tục để chuyển quyền sở hữu tài sản cho vợ chồng em gái bạn vì thế nhà đất đó vẫn là tài sản của mẹ chồng em gái bạn để lại cho các thừa kế, chưa chia.

    Theo quy định của Bộ luật dân sự về xác lập quyền sở hữu tài sản do sáp nhập, trộn lẫn thì giá trị tài sản mà vợ chồng em gái bạn tạo ra trên khối tài sản của bà mẹ chồng thì bà mẹ chồng có quyền sở hữu và thanh toán giá trị cho vợ chồng em bạn. Nay bà mẹ chồng đã chết thì quyền sở hữu tài sản đó thuộc về các thừa kế của bà ấy.

    2. Trong vụ án ly hôn trên. Tòa án sẽ xác định giá trị phần tài sản tăng lên là tái sản chung của vợ chồng em bạn và sẽ chia theo quy định pháp luật. Tòa án có thể chia một phần diện tích nhà đất cho em bạn sử dụng làm chỗ ở, nuôi con nếu em bạn không còn chỗ ở nào khác và việc phân chia như vậy không ảnh hưởng tới đời sống riêng tư của vợ chồng em bạn sau khi ly hôn.

    3. Việc em bạn yêu cầu chậm xét xử để chờ kết quả giải quyết tố cáo em rể bạn là không có căn cứ, kết quả tố cáo đó cũng không ảnh hưởng nhiều tới kết quả vụ án ly hôn và chia tài sản chung vợ chồng. Vì vậy, trong vụ án trên, giải pháp tốt nhất là hai vợ chồng nên thương lượng về việc chia tài sản chung, như vậy có thể có lợi hơn cho em gái bạn.

     

  • Xem thêm     

    11/02/2017, 08:23:56 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Bạn có thể tham khảo thêm nội dung tư vấn ở trên.

  • Xem thêm     

    11/02/2017, 08:21:57 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Khi người dân làm thủ tục cấp, đổi chứng minh thư sang thẻ căn cước, cán bộ tiếp nhận sẽ cắt góc chứng minh thư cũ và trả cho người dân giữ.  Khi gặp khó khăn trong việc công chứng, hay giao dịch ngân hàng, bảo hiểm... người dân có thể xuất trình chứng minh thư đã bị cắt góc và các cơ quan liên quan phải có trách nhiệm giải quyết như bình thường. 

    Ngoài ra, người dân có nhu cầu cũng sẽ được lực lượng công an cấp giấy xác nhận về việc thay đổi số chứng minh thư sang thẻ căn cước công dân. Vì vậy, bạn hoàn toàn yên tâm nếu làm thẻ căn cước để sử dụng thay CMND.

  • Xem thêm     

    09/02/2017, 11:09:58 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Theo quy định pháp luật thì một người có thể định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của mình cho người khác thông qua các thủ tục như bán, tặng cho, thừa kế... Tuy nhiên, điều kiện để định đoạt tài sản là chủ sở hữu tài sản phải tỉnh táo, minh mẫn, có đủ năng lực hành vi dân sự.

    Theo thông tin bạn nêu thì bố bạn đang "già yếu bị bệnh đãng trí không biết gì nữa". Vì vậy không bố bạn không đủ tỉnh táo, minh mẫn để định đoạt căn nhà nêu trên.

    Pháp luật quy định trường hợp một người bị mất năng lực hành vi dân sự thì các giao dịch sẽ do người giám hộ thực hiện. Tuy nhiên, việc định đoạt tài sản của người được giám hộ phải vì quyền lợi của họ. Vì vậy, người giám hộ của bố bạn (mẹ bạn hoặc các con) không thể sang tên ngôi nhà đó cho người giám hộ và các thành viên khác trong gia đình được. Nếu bố bạn không còn đủ tỉnh táo, minh mẫn để tự mình ký văn bản tặng cho, chuyển nhượng hoặc ký di chúc thì gia đình bạn phải chờ đến khi bố bạn qua đời thì mới làm được các thủ tục pháp lý để định đoạt ngôi nhà đó, đảm bảo quyền lợi của bố bạn theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    08/02/2017, 03:06:42 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 175 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định Ranh giới giữa các bất động sản như sau:

    "1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ 30 năm trở lên mà không có tranh chấp.

    Không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách, kể cả trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng. Mọi chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung.

    2. Người sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới của thửa đất phù hợp với quy định của pháp luật và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất của người khác.

    Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, cắt, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.".

    Theo quy định pháp luật nêu trên thì ông Thắng được quyền sử đụng bất động sản thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình trong phạm vi khuôn viên, ranh giới bất động sản đó.

    Nếu phần diện tích ngõ đi chung chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Thắng thì việc ông Thắng tự ý lấn chiếm, sử dụng trái phép như vậy là không phù hợp quy định pháp luật. Trong trường hợp này, bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu xác định ngõ đi chung  và đề nghị chính quyền cưỡng chế, tháo dỡ 

    Quyền có lối đi là một quyền cơ bản đối với bất động sản. Theo đó, nếu thửa đất của gia đình bạn bị bao bọc bởi các thửa đất khác thì bạn có quyền yêu cầu các chủ bất động sản khác dành cho mình một lối đi theo quy định sau đây của Bộ luật dân sự: 

    "Điều 254. Quyền về lối đi qua

    1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.

    Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

    Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.

    3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù. ".

    Vụ việc nêu trên, nếu không thỏa thuận được thì bạn có quyền làm đơn gửi UBND xã để được hòa giải theo quy định pháp luật. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì bạn có quyền khởi kiện đến tòa án để được giải quyết tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    04/02/2017, 10:07:21 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn nên sử dụng thuật ngữ theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    04/02/2017, 09:55:29 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn yêu cầu công ty thanh toán, Nếu họ từ chối thì phải có văn bản và nêu rõ căn cứ, bạn có thể khiếu kiện về trả lời của họ.

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 02:57:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác !

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bác như sau:

    Bác chưa nói rõ thời điểm bác mua thửa đất và thời điểm chung sống như vợ chồng nên luật sư chưa thể tư vấn cụ thể cho bác được. Về nguyên tắc, pháp luật quy định như sau: 

    1. Về quan hệ hôn nhân: Nếu việc chung sống như vợ chồng được thực hiện trước ngày 03/01/1987 thì theo quy định tại Nghị quyết 35/2000/NQ-QH và Thông tư số 01/2001/TT-BTP không phải đăng ký kết hôn, mặc nhiên pháp luật thừa nhận là vợ chồng. cụ thể như sau:

    Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:

    a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000".

    Như vậy, nếu quan hệ vợ chồng giữa bác và bác trai được xác lập (chung sống như vợ chồng trước 03/01/1987) thì bác và các con riêng, con chung và bố mẹ của chồng bác thuộc hàng thừa kế thứ nhất và có quyền thừa kế như nhau đối với di sản do chồng bác để lại./

    2. Tài sản chung vợ chồng - Di sản thừa kế: Theo thông tin bác nêu thì thửa đất có một phần mua trước khi cưới và một phần mua sau khi cưới nhưng khi cấp giấy chứng nhận lại đứng tên hai vợ chồng toàn bộ thửa đất đó. Vì vậy có căn cứ để xác định thửa đất trên là tài sản chung của hai vợ chồng bác. Tuy nhiên có xét tời công sức đóng góp và nguồn gốc tài sản. Khi ra tòa giải quyết tranh chấp thừa kế thì bác có thể được hưởng 7/10 hoặc 6/10 giá trị thửa đất trên. Nếu hôn nhân của bác được xác lập theo luật hôn nhân năm 1959 thì theo quy định tại Điều 15 của luật này tài sản có trước và sau khi cưới đều là tài sản chung vợ chồng.

    Vì vậy, trong vụ việc trên nếu con riêng của chồng bác không đồng ý thì bác không thể toàn quyền quyết định được toàn bộ thửa đất đó, mà phải phân chia di sản thừa kế đối với phần di sản mà chồng bác để lại.

    3. Trong trường hợp quan hệ hôn nhân của bác không hợp pháp - Chung sống như vợ chồng sau ngày 03/01/1987 mà không có đăng ký kết hôn thì thừa đất đó vẫn được xác định là tài sản chung. Nếu tranh chấp khiến tòa án giải quyết mà bác chứng minh được phần lớn thửa đất do bác bỏ tiền ra mua trước khi cưới thì bác sẽ được sở hữu riêng phần này, phần mua thêm và tạo lập thêm trong thời kỳ chung sống sẽ chia đôi, phần của chồng bác sẽ chia thừa kế cho các con của chồng.

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 11:20:58 SA | Trong chuyên mục Lao động

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu công ty yêu cầu bạn phải bồi thường thì phải có chứng cứ chứng minh là đã giao tài sản cho bạn và bạn chưa bàn giao trở lại, bạn có lỗi trong việc quản lý tài sản gây mất mát thì bạn mới phải bồi thường theo quy định của Bộ luật lao động về trách nhiệm vật chất,

    Nếu công ty không chứng minh được việc đã bàn giao tài sản cho bạn hoặc có chứng cứ thể hiện bạn đã bàn giao trả lại tài sản cho người quản lý của công ty thì bạn không phải bồi thường thiệt hại. Người lao động chỉ phải bồi thường thiệt hại vật chất nếu có lỗi, để xảy ra thiệt hại cho công ty.

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 10:55:00 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:"


    Theo thông tin bạn nêu ở trên thì vụ việc có dấu hiệu tội phạm. Nếu một trong hai bên gia đình trình báo thì cơ quan công an sẽ khởi tố vụ án về tội gây rối trật tự công cộng, tiếp tục điều tra, làm rõ về các hành vi hủy hoại tài sản, cố ý gây thương tích, xâm phạm chỗ ở của công dân và hành vi đe dọa giết người...

    Hành vi tụ tập đông người gây huyên náo, hò hét đánh nhau nơi công cộng (đường làng, ngõ xóm, khu dân cư)... dẫn đến một người ngã, chết là hành vi có thể xử lý nhóm đánh người về tội gây rối trật tự công cộng. Ngoài ra, hành vi đe dọa giết người, hủy hoại, làm hư hỏng tài sản của người khác, đánh đuổi người khác ra khỏi nơi cư trú đều là các hành vi vi phạm pháp luật và có thể bị xử lý hình sự theo các tội danh sau đây:

    Điều 103. Tội đe dọa giết người

    1. Người nào đe doạ giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe doạ lo sợ rằng việc đe doạ này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Đối với nhiều người;

    b) Đối với người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    c) Đối với trẻ em;

    d) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.

    Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng

    1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;

    b) Có tổ chức;

    c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

    d) Xúi giục người khác gây rối;

    đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

     

    e) Tái phạm nguy hiểm.

    Điều 143. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản

    1. Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác gây thiệt hại từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Dùng chất nổ, chất cháy hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    c) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    d) Để che giấu tội phạm khác;

    đ) Vì lý do công vụ của người bị hại;

    e) Tái phạm nguy hiểm;

    g) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thiệt hại cho tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

     

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Vì vậy, gia đình bạn cần làm đơn trình báo sự việc với cơ quan công an để được xem xét giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 10:37:27 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc bạn nêu trên sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 để giải quyết. Hiện nay, Bộ luật hình sự năm 2015Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn chưa có hiệu lực pháp luật. Theo nghị quyết của Quốc hội và hướng dẫn của TAND tối cao thì những nguyên tắc có lợi cho bị can, bị cáo theo quy định của BLHS và BLTTHS năm 2015 mới được áp dụng.

    Trong vụ án trên, nếu cơ quan tố tụng có tài liệu, chứng cứ chứng minh bị cáo đã thực hiện thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản trị giá 18 triệu đồng rồi bỏ trốn thì hành vi này sẽ bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS năm 1999, sửa đổi băm 2009 (nếu mục đích chiếm đoạt tài sản có trước thời điểm nhận được tài sản) hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS (nếu bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản) .

    Hành vi của bị cáo cấu thành tội phạm từ khi nhận được tài sản để thực hiện ý định chiếm đoạt. Vì vậy, sau khi bị tố giác bị cáo mới trả lại tài sản cho người bị hại thì hành vi này chỉ là tình tiết để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1, Điều 46 BLHS năm 1999 chứ không phải là căn cứ miễn trách nhiệm hình sự.

    Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thì tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không phải là tội danh được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Vì vậy, nếu trong quá trình điều tra, truy tố xét xử mà người bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố (bãi nại) thì cũng không phải căn cứ để đình chỉ vụ án.

    Vì vậy, trong vụ án trên cần làm rõ hành vi, thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản, thời điểm tội phạm hoàn thành. Nếu tội phạm đã hoàn thành thì việc rút đơn, bãi nại không phải là căn cứ đình chỉ, việc kết tội bị cáo là có căn cứ.

    Với tài sản bị chiếm đoạt trị giá 18 triệu đồng thì bị cáo sẽ bị truy tố ở khoản 1, Điều 139 Bộ luật hình sự với khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù. Nếu phạm tội thuộc khoản 2, thì hình phạt sẽ từ 2 năm đến 7 năm tù, cụ thể như sau:

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. "

    Như vậy, để kết tội bị cáo thì tòa án phải có đầy đủ căn cứ để chứng minh hành vi của bị cáo thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm, cụ thể như sau:

    Về hành vi.

     Có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý tài sản tin nhầm giao tài sản cho người phạm tội để chiếm đoạt tài sản đó.

    -         Dùng thủ đoạn gian dối là đưa ra thông tin giả (không đúng sự thật) nhưng làm cho người khác tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội. Việc đưa ra thông tin giả có thể bằng nhiều cách khác nhau như bằng lời nói, bằng chữ viết, bằng hành động … và bằng nhiều hình thức khác như giả vờ vay, mượn, thuê để chiếm đoạt tài sản
    -         Chiếm đoạt tài sản, được hiểu là hành vi chuyển dịch một cách trái pháp luật tài sản của người khác thành của mình. Đặc điểm của việc chiếm đoạt này là nó gắn liền và có mối quan hệ nhân quả với hành vi dùng thủ đoạn gian dối.

    -           Thời điểm hoàn thành tội phạm này được xác định từ lúc kẻ phạm tội đã chiếm giữ được tài sản sau khi đã dùng thủ đoạn gian dối để làm cho người chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản bị mắc lừa gia tài sản cho kẻ phạm tội hoặc không nhận tài sản đáng lẽ phải nhận.

    -           Người phạm tội thực hiện tội phạm này với lỗi cố ý.
    Về mặt ý chí

    Về mặt ý chí của người phạm tội lừa đảo bao giờ cũng nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản trước khi thực hiện hành vi lừa đảo, đây là điểm phân biệt cấu thành tội lạm dụng tín nhiếm chiếm đoạt tài sản. Vì trong một số trường hợp phạm tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì bao giờ ý định chiếm đoạt tài sản cũng phát sinh sau khi nhận tài sản thông qua một hình thức giao dịch nhất định
    Ý thức chiếm đoạt phải có trước thủ đoạn gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. thủ đoạn gian dối bao giờ cũng phải có trước khi tiến hành giao tài sản giữa người bị hại với người phạm tội. Nếu sau khi có được tài sản hợp pháp mới phát sinh thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì không coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà tuỳ từng trường hợp cụ thể người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về những tội danh tương ứng ( như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản)

    Như vậy, dấu hiệu cơ bản và bắt buộc của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là:              

    Người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nếu có hành vi gian dối mà không có hành vi chiếm đoạt (chỉ chiếm giữ hoặc sử dụng), thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người có hành vi gian dối trên bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội chiếm giữ trái phép hoặc tội sử dụng trái phép tài sản, hoặc đó chỉ là quan hệ dân sự.
    Trường hợp hành vi gian dối, hay hành vi chiếm đoạt cấu thành vào một tội danh độc lập khác, thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chí bị truy cứu những tội danh tương ứng đó. Ví dụ, như hành vi gian dối làm tem giả, vé giả …( Điều 164 Bộ luật hình sự), hành vi gian dối trong cân đong đo đếm, tình gian, đánh tráo hàng ( Điều 162 Bộ luật hình sự), hành vi lừa đảo chiếm đoạt chất ma tuý (Điều 194 Bộ luật hình sự), hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là lương thực thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); hành vi buôn bán sản xuất hàng giả là thức ăn chăn nuôi, phân bón thuốc thú y, bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi (Điều 158 Bộ luật hình sự) đều có dấu hiệu gian dối.

    Và dấu hiệu về giá trị tài sản chiếm đoạt: Giá trị tài sản bị chiếm đoạt phải từ hai triệu đồng trở lên.Nếu dưới hai triệu đồng thì phải thuộc trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bi kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này .

     

    Để được hưởng án treo thì bị cáo phải đủ điều kiện quy định tại Điều 60 BLHS và hướng dẫn tại Điều 2, Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP, cụ thể như sau:

    Điều 2. Việc xem xét cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo

    1. Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Bị xử phạt tù không quá 3 năm về tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng theo phân loại tội phạm quy định tại khoản 3 Điều 8 của Bộ luật hình sự;

    b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn tôn trọng các quy tắc xã hội, chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, công tác; không vi phạm các điều mà pháp luật cấm; chưa bao giờ bị kết án, bị xử lý vi phạm hành chính, bị xử lý kỷ luật.

    Trường hợp người phạm tội có án tích nhưng đã được xóa án tích, được đương nhiên xóa án tích thì coi là chưa bị kết án; đã bị xử lý hành chính, xử lý kỷ luật nhưng đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật thì được coi là chưa bị xử lý hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật, nhưng không phải là có nhân thân tốt. Việc cho hưởng án treo đối với những trường hợp này phải hết sức chặt chẽ. Chỉ có thể xem xét cho hưởng án treo khi thuộc một trong các trường hợp sau:

    b1) Người bị kết án từ trên 3 năm tù đến 15 năm tù về tội do cố ý (kể cả trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều tội hoặc nhiều bản án) mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

    b2) Người bị kết án đến 3 năm tù về tội do cố ý mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

    b3) Người bị kết án về các hình phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ mà thời gian được xóa án tích tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

    b4) Người bị kết án về các tội do vô ý mà đã được xóa án tích;

    b5) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

    b6) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc một lần và có nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 2 năm;

    b7) Người đã bị đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc mà thời gian được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;

    b8) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật từ hai lần trở lên mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 18 tháng;

    b9) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật về hành vi có cùng tính chất với hành vi phạm tội lần này mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 1 năm;

    b10) Người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 6 tháng;

    b11) Người đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính;

    c) Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;

    d) Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự và có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên trong đó có ít nhất một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự; nếu có một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì phải có từ ba tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

    Những tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự là những tình tiết được hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999”;

    đ) Có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng.

    2. Không cho hưởng án treo nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị quy định tại khoản 2 Điều 3 của Bộ luật hình sựbao gồm: người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng; phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;

    b) Bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội;

    c) Trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã bị xét xử trong một vụ án khác hoặc đang bị khởi tố, điều tra, truy tố trong một vụ án khác;

    d) Bị cáo tại ngoại bỏ trốn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án đã đề nghị cơ quan điều tra truy nã.

    3. Khi xem xét, quyết định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo, cần lưu ý:

    a) Đối với trường hợp người bị xử phạt tù đã bị tạm giữ, tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù;

    b) Những trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu có đủ điều kiện để áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự thì cũng phải xử trong khung hình phạt liền kề là đã thể hiện chính sách khoan hồng đối với họ; không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với các tội phạm mà dư luận xã hội lên án, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ, để phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng;

    c) Những trường hợp có tình tiết định khung tăng nặng, nếu Viện kiểm sát không truy tố cũng phải áp dụng để xét xử đúng quy định của pháp luật; nếu còn có các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự cũng phải được áp dụng đầy đủ; không được vì muốn cho hưởng án treo mà không áp dụng đầy đủ các tình tiết định khung tăng nặng và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự;

    d) Khi quyết định hình phạt phải tuân thủ nguyên tắc xử lý quy định tại Điều 3 của Bộ luật hình sự kết hợp với các căn cứ quyết định hình phạt quy định tại Điều 45 của Bộ luật hình sự; không được cho rằng án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù để tăng hình phạt lên cao hơn các trường hợp khác không có căn cứ và cho hưởng án treo; không được tùy tiện giảm mức hình phạt tù không có căn cứ để đủ điều kiện về mức hình phạt tù quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự và cho hưởng án treo..

    Nếu thấy tòa án cấp sơ thẩm xử không đúng người, không đúng tội hoặc mức án quá nghiêm khắc thì bị cáo hoàn toàn có thể kháng cáo kêu oan hoặc xin giảm hình phạt, đồng thời có thể mời luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại phiên tòa phúc thẩm, thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm khoảng 3-4 tháng.

     

  • Xem thêm     

    03/02/2017, 08:51:44 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Theo quy định khoản 2, Điều 8, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 và và quy định tại khoản 5, Điều 3, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì " Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn". Như vậy, với quy định trên thì quan hệ hôn nhân chỉ được xác lập, được pháp luật thừa nhận khi nam và nữ có đăng ký kết hôn hợp pháp. Trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn thì pháp luật không thừa nhận là vợ chồng. Theo quy định của Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội quy định: Từ ngày 01/01/2001, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng...Tại khoản 3 Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000 của Quốc hội hướng dẫn về việc thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của luật này được thực hiện như sau:

    a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 3/1/1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Tòa án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

    b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 3/1/1987 đến ngày 1/1/2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 1/1/2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Tòa án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết. Từ sau ngày 1/1/2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.

    c) Kể từ ngày 1/1/2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật chấp nhận là vợ chồng…”. Vì vậy, nếu việc chung sống như vợ chồng xảy ra sau ngày 03/01/1987 mà đến nay vẫn không có đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận là vợ chồng. Một trong các bên đều có quyền kết hôn với người khác. Nếu có tranh chấp về tài sản thì áp dụng các quy định của luật dân sự để giải quyết. Nếu có tranh chấp về quyền nuôi con thì căn cứ vào luật hôn nhân và gia đình để giải quyết. khi có tranh chấp về quyền nuôi con thì tòa án sẽ giao con cho người có điều kiện để con có thể phát triến tốt hơn và người không trực tiếp nuôi con sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng. 

    Cụ thể luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định như sau:

    Điều 14. Giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

    1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.

    2. Trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều này nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn.

    Điều 15. Quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con trong trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

    Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.

    Điều 16. Giải quyết quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

    1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

    2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập. ".

     

  • Xem thêm     

    02/02/2017, 05:58:24 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Cần phải có ý kiến của mẹ đẻ thì bạn mới nhận con riêng của chồng làm con nuôi được, quy định ở điều 14 và điều 18 Luật nuôi con nuôi.

  • Xem thêm     

    02/02/2017, 05:50:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nộp thuế sử dụng đất là một nghĩa vụ của người sử dụng đất. Nộp thuế là một trong những căn cứ xác định thời điểm sử dụng đất, xác định việc sử dụng đất được cho là "ổn định". Tuy nhiên, không phải trường hợp nào nộp thuế sử dụng đất hàng năm thì cũng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Mặc dù gia đình bạn không nộp thuế sử dụng đất hàng năm nhưng nếu thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định của luật đất đai năm 2013 sau đây thì bạn vẫn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất:

    "Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

    g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.".

     

  • Xem thêm     

    24/01/2017, 03:06:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung bao gồm tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung, do lao động, sản xuất. Vì vậy, nếu thửa đất trên được công nhận quyền sử dụng đất trong thời kỳ hôn nhân cho vợ chồng bạn thì mới là tài sản chung của vợ chồng bạn.

    2. Theo quy định của Bộ luật dân sự thì căn cứ xác lập quyền sử dụng đất bao gồm: Được nhà nước giao đất; Nhận chuyển quyền sử dụng đất và được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy chứng nhận).

    Vì vậy, nếu bố mẹ chồng bạn cho tiền để vợ chồng bạn cũng mua đất, đứng tên vợ chồng bạn thì thửa đất đó mới là tài sản chung của vợ chồng bạn. 

    Nếu bố mẹ chồng bạn mua đất, nhờ chồng bạn đứng tên, bố mẹ chồng bạn là người trả tiền thì bố mẹ bạn vẫn có thể đòi quyền lợi từ thửa đất đó.

    Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đòi hỏi thửa đất phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải được công chứng văn bản chuyển nhượng và đăng ký thì mới có giá trị pháp lý. Theo thông tin bạn nêu thì việc mua bán, chuyển nhượng từ năm 2011 mà thửa đất chửa có giấy chứng nhận thì việc chuyển nhượng đó là không hợp pháp, không có giá trị pháp lý.

    Trong vụ việc trên bạn chỉ có quyền lợi nếu vợ chồng bạn góp tiền vào mua thửa đất đó hoặc được bố mẹ chồng bạn đồng ý cho cả hai vợ chồng thửa đất đó.

  • Xem thêm     

    20/01/2017, 08:26:49 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể nhận con riêng của chồng làm con nuôi nếu đủ điều kiện nhận con nuôi nếu đảm bảo mục đích và đủ điều kiện theo quy định của Luật con nuôi hiện hành, cụ thể như sau:

     Điều 2- Luật nuôi con nuôi 2010 quy định về mục đích nuôi con nuôi

    " Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình".

     Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi

    1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

    b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;

    c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi;

    d) Có tư cách đạo đức tốt.

    2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:

    a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

    b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

    c) Đang chấp hành hình phạt tù;

    d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

    3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 điều này.

     Điều 8. Người được nhận làm con nuôi

    1. Trẻ em dưới 16 tuổi

    2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

    b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.

    3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.

    4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.

    Điều 9. Thẩm quyền đăng ký nuôi con nuôi

    1. Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước.

    2. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) nơi thường trú của người được giới thiệu làm con nuôi quyết định việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; Sở Tư pháp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.

    3. Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài đăng ký việc nuôi con nuôi của công dân Việt Nam tạm trú ở nước ngoài.  

     

  • Xem thêm     

    20/01/2017, 08:15:38 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Vụ việc mà nêu ở trên là "đánh nhau" giữa hai nhóm thanh niên, hậu quả là một số người bị thương tích... Nếu sự việc bị phát hiện hoặc có đơn tố cáo thì công an sẽ vào cuộc làm rõ nguyên nhân, hành vi của từng người và làm rõ hậu quả xảy ra để có căn cứ giải quyết vụ việc theo quy định pháp luật.

    Kết quả giám định tỉ lệ thương tật của những người bị hại sẽ là căn cứ để khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can với các đối tượng gây án.

    Với những người bị dọa, bị uy hiếp sau đó bỏ chạy, không tham gia đánh nhau sau đó thì không bị xử lý. Còn tất cả những người tham gia đánh nhau của hai nhóm đều có hành vi gây rối trật tự công cộng và cố ý gây thương tích.

    Vì vậy, những người đánh, chém người khác gây thương tích cho người khác của cả hai bên sẽ bị xử lý về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự hiện hành. Với những người không trực tiếp gây thương tích cho người khác nhưng có giúp sức, xúi giục, chỉ huy thì cũng bị xử lý về cùng một tội danh với vai trò đồng phạm. Còn những người "cổ vũ" cho hành vi đánh nhau đó sẽ bị xem xét khởi tố về tội gây rối trật tự công cộng theo quy định tại Điều 245 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác 

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng

    1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;

    b) Có tổ chức;

    c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

    d) Xúi giục người khác gây rối;

    đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

    e) Tái phạm nguy hiểm.

    Vì vậy, tùy vào tính chất mức độ hành vi, nhận thức, động cơ, mục đích và hậu quả của từng người mà cơ quan điều tra sẽ có những biện pháp xử lý phù hợp. Những người bị bắt, bị tạm giữ, bị khởi tố trong vụ án này cũng có quyền được mời luật sư để bào chữa cho mình ngay từ đầu vụ án.

  • Xem thêm     

    19/01/2017, 08:40:44 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Hành vi "đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau" sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng theo quy định tại khoản 2, Điều 5, Nghị định 167/2013/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

    ...

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    ..."

    Vì vậy, nếu bạn "đánh nhau" thì việc xử phạt là đúng pháp luật (dù chưa gây ra thương tích cho người bị đánh), còn nếu không phải là "đánh nhau", chỉ là tự vệ thì việc xử phạt mới là sai và bạn có quyền khiếu nại.

344 Trang «<13141516171819>»