Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<12131415161718>»
  • Xem thêm     

    22/02/2017, 10:13:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Nếu nghĩa vụ tài chính của gia đình bạn đã được xác định năm 2002 mà gia đình bạn chưa đóng thì phải nộp theo quy định đó và tiền phạt chậm nộp. 

    Nếu năm 2002 chưa tính thuế, phí, lệ phí, tiền sử dụng đất thì nay mới tính lại theo quy định hiện nay. 

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 10:09:55 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Vụ việc của bạn không thể đăng ký được vì tài sản đang thé chấp. Trong vụ việc này, ngân hàng có quyền khởi kiện, yêu cầu xem xét lại thủ tục xử lý vi phạm hành chính và bán đấu giá chiếc xe đó. Vụ việc này cần xem lại căn cứ pháp lý của quyết định tịch thu tài sản là chiếc xe ô tô đó. Nếu việc thu giữ không đúng quy định thì có thể hủy bỏ kết quả bán đấu giá và hoàn lại tiền, bồi thường thiệt hại cho bạn.

     

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 08:20:05 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !


    "Tiền án" là người bị kết án mà chưa được xóa án tích. Vì vậy, nếu bạn chưa được xóa án tích thì bạn được coi là có "tiền án".

    Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định về xóa án tích như sau:

      Điều 63. Xoá án tích

    Người bị kết án được xoá án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật này.
    Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận.
    Điều 64. Đương nhiên được xoá án tích
    Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:
    1. Người được miễn hình phạt.
    2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:
    a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;
    b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;
    c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;
    d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.
    Điều 65. Xoá án tích theo quyết định của Toà án
    1. Toà án quyết định việc xoá án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án trong các trường hợp sau đây:
    a) Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
    b) Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;
    c) Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.
    2. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.
    Điều 66. Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt
    Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị, thì có thể được Toà án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.

     

    - Về thủ tục xóa án tích:

     

    Khi người bị kết án đương nhiên xóa án tích, nếu cần cấp giấy chứng nhận xóa án tích thì cần chuẩn bị hồ sơ bao gồm:

     

    - Đơn xin xóa án tích (theo mẫu).

     

    - Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của trại giam nơi thụ hình án cấp

     

    - Giấy xác nhận của cơ quan thi hành án dân sự về việc thi hành xong các khỏan bồi thường, án phí, tiền phạt;

     

    - Giấy chứng nhận không phạm tội mới do Công an Quận, Huyện nơi người bị kết án thường trú cấp (theo mẫu quy định của ngành Công an)

     

    - Bản sao hộ khẩu; bản sao chứng minh nhân dân.

     

    * Thẩm quyền xét đơn xin xóa án tích:

     

    - Người xin xóa án tích nộp hồ sơ xin xóa án tích tại Tòa án đã xét xử sơ thẩm (có thể nộp trực tiếp hoặc gửi qua đường Bưu điện).

     

    - Người xin xóa án tích không phải nộp bất cứ khoản tiền lệ phí Tòa án nào (trừ trường hợp xin sao quyết định xóa án tích hoặc giấy chứng nhận xóa án tích).  

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 07:58:20 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Biên bản xử lý vi phạm hành chính được lập tại chỗ nơi có hành vi vi phạm và không bắt buộc phải có chữ ký của người vi phạm. Việc lập biên bản tại trụ sở cơ quan công an là không đúng thủ tục luật định. Vì vậy, công ty bạn không cần phải ủy quyền cho nhân viên tới công an để làm biên bản. Còn thủ tục ủy quyền nói chung đến hoạt động của công ty thì theo quy định của điều lệ, nếu điều lệ không có quy định cụ thể thì người đại diện theo pháp luật có thể ủy quyền cho bất kỳ ai với điều kiện người nhận ủy quyền có đầy đủ năng lực hành vi dân sự.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Luật xử lý vi phạm hành chính hiện hành

    Điều 58. Lập biên bản vi phạm hành chính

    1. Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này.

    Trường hợp vi phạm hành chính được phát hiện nhờ sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật, nghiệp vụ thì việc lập biên bản vi phạm hành chính được tiến hành ngay khi xác định được tổ chức, cá nhân vi phạm.

    Vi phạm hành chính xảy ra trên tàu bay, tàu biển, tàu hỏa thì người chỉ huy tàu bay, thuyền trưởng, trưởng tàu có trách nhiệm tổ chức lập biên bản và chuyển ngay cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính khi tàu bay, tàu biển, tàu hỏa về đến sân bay, bến cảng, nhà ga.

    2. Biên bản vi phạm hành chính phải ghi rõ ngày, tháng, năm, địa điểm lập biên bản; họ, tên, chức vụ người lập biên bản; họ, tên, địa chỉ, nghề nghiệp của người vi phạm hoặc tên, địa chỉ của tổ chức vi phạm; giờ, ngày, tháng, năm, địa điểm xảy ra vi phạm; hành vi vi phạm; biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và bảo đảm việc xử lý; tình trạng tang vật, phương tiện bị tạm giữ; lời khai của người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ, lời khai của họ; quyền và thời hạn giải trình về vi phạm hành chính của người vi phạm hoặc đại diện của tổ chức vi phạm; cơ quan tiếp nhận giải trình.

    Trường hợp người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm không có mặt tại nơi vi phạm hoặc cố tình trốn tránh hoặc vì lý do khách quan mà không ký vào biên bản thì biên bản phải có chữ ký của đại diện chính quyền cơ sở nơi xảy ra vi phạm hoặc của hai người chứng kiến.

    3. Biên bản vi phạm hành chính phải được lập thành ít nhất 02 bản, phải được người lập biên bản và người vi phạm hoặc đại diện tổ chức vi phạm ký; trường hợp người vi phạm không ký được thì điểm chỉ; nếu có người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại thì họ cùng phải ký vào biên bản; trường hợp biên bản gồm nhiều tờ, thì những người được quy định tại khoản này phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu người vi phạm, đại diện tổ chức vi phạm, người chứng kiến, người bị thiệt hại hoặc đại diện tổ chức bị thiệt hại từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản.

    Biên bản vi phạm hành chính lập xong phải giao cho cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính 01 bản; trường hợp vi phạm hành chính không thuộc thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền xử phạt của người lập biên bản thì biên bản phải được chuyển ngay đến người có thẩm quyền xử phạt để tiến hành xử phạt.

    Trường hợp người chưa thành niên vi phạm hành chính thì biên bản còn được gửi cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người đó.

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 07:24:41 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn  !
    Hành vi ghi số tiền chuyển nhượng trong hợp đồng nhỏ ơn số tiền chuyển nhượng thực tế diễn ra nhiều trên thực tế, mục đích là để trốn thuế thu nhập cá nhân của bên chuyển nhượng (2%). Nếu bị phát hiện sẽ bị xử phạt về hành vi này.

    Để đảm bảo nhận được số tiền chuyển nhượng đúng với giá trị theo thỏa thuận thực tế thì gia đình bạn chỉ bàn giao nhà và ký hợp đồng chuyển nhượng khi nhận đủ tiền. Nếu thỏa thuận và thực hiện như vậy thì sẽ không sợ mất tiền, không sợ bên mua chậm thanh toán.

  • Xem thêm     

    22/02/2017, 07:04:17 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Nếu chồng bạn chỉ là người đứng tên, không phải là người trả tiền thì dù giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chồng bạn thì chưa chắc cá nhân chồng bạn đã có quyền lợi. Về nguyên tắc thì ai trả tiền người đó sẽ có quyền lợi. Với thông tin bạn nêu thì bạn chỉ có quyền lợi nếu bố mẹ chồng bạn và chồng bạn đồng ý.

  • Xem thêm     

    21/02/2017, 08:27:29 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Trong hợp kinh doanh thương mại thì các bên có thể thỏa thuận cơ quan có thẩm quyền giải quyết, trọng tài hoặc tòa án. 

    Còn nếu là hợp đồng dân sự thì có thể là nơi cư trú của bị đơn, nơi thực hiện hợp đồng hoặc theo sự thỏa thuận của các bên.

    Nếu hợp đồng của bạn là hợp đồng dân sự và thuộc trường hợp sau đây thì bạn có thể căn cứ vào quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 để hủy bỏ hợp đồng:

    Điều 423. Hủy bỏ hợp đồng

    1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp sau đây:

    a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;

    b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;

    c) Trường hợp khác do luật quy định.

    2. Vi phạm nghiêm trọng là việc không thực hiện đúng nghĩa vụ của một bên đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng.

    3. Bên hủy bỏ hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    Điều 424. Hủy bỏ hợp đồng do chậm thực hiện nghĩa vụ

    1. Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ không thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng.

    2. Trường hợp do tính chất của hợp đồng hoặc do ý chí của các bên, hợp đồng sẽ không đạt được mục đích nếu không được thực hiện trong thời hạn nhất định mà hết thời hạn đó bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng mà không phải tuân theo quy định tại khoản 1 Điều này.

    Điều 425. Hủy bỏ hợp đồng do không có khả năng thực hiện

    Trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình làm cho mục đích của bên có quyền không thể đạt được thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.

  • Xem thêm     

    21/02/2017, 08:23:11 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Nếu người gây tai nạn cho bạn không bồi thường thỏa đáng thì bạn có quyền gửi đơn trình báo tới cơ quan công an để được xem xét giải quyết. Vụ việc tai nạn giao thông thường khó ở việc thu thập chứng cứ, hiện trường dễ bị xáo trộn, vì vậy bạn nên trình báo càng sớm càng tốt.

    Sau khi cơ quan công an vào cuộc sẽ tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các thông tin vụ việc và tiến hành trưng cầu giám định thương tật đối với bạn để làm căn cứ giải quyết vụ việc. Nếu người kia có lỗi, gây thiệt hại đến 31% sức khỏe của bạn thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bạn theo quy định sau đây của Bộ luật dân sự năm 2015:

    "Điều 590. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.".

    Vì vậy, nếu các bên không thỏa thuận được thì bạn có thể gửi đơn tới công an nơi sự việc xảy ra để được giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    21/02/2017, 08:11:24 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Theo quy định của Luật kinh doanh bất động sản năm 2014 thì "Môi giới bất động sản là việc làm trung gian cho các bên trong mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản".

    Ngoài ra, Luật kinh doanh bất động sản quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới như sau:

    Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải thành lập doanh nghiệp và phải có ít nhất 02 người có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 62.

    - Cá nhân có quyền kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập nhưng phải có chứng chỉ hành nghề môi giới bất động sản và đăng ký nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.

    - Tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không được đồng thời vừa là nhà môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất động sản. (Điều 62).

     

     Nội dung môi giới bất động sản bao gồm: 

    -  Tìm kiếm đối tác đáp ứng các điều kiện của khách hàng để tham gia đàm phán, ký hợp đồng.

    -  Đại diện theo ủy quyền để thực hiện các công việc liên quan đến các thủ tục mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản.

    - Cung cấp thông tin, hỗ trợ cho các bên trong việc đàm phán, ký hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản. (Điều 63)

    Điều 64 quy định thù lao môi giới bất động sản như sau:

    -  Doanh nghiệp, cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản được hưởng tiền thù lao môi giới từ khách hàng không phụ thuộc vào kết quả giao dịch mua bán, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, cho thuê mua bất động sản giữa khách hàng và người thứ ba.

    -  Mức thù lao môi giới bất động sản do các bên thỏa thuận trong hợp đồng không phụ thuộc vào giá của giao dịch được môi giới.

     

    Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì hợp đồng của bạn là hợp đồng môi giới bất động sản. Vì vậy, chủ thể tham gia hợp đồng, nội dung hợp đồng phải phù hợp với các quy định nêu trên của pháp luật. Nếu bạn không đủ kiều kiện tham gia ký kết hợp đồng môi giới hoặc nội dung không phù hợp quy định pháp luật thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu, không phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

    Nếu hợp đồng môi giới có hiệu lực pháp luật thì bạn có thể khởi kiện tới tòa án để yêu cầu bên chủ sử dụng đất phải thanh toán thù lao theo nội dung hợp đồng đã ký kết.

     

  • Xem thêm     

    17/02/2017, 04:08:16 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Việc thay đổi thông tin trong giấy khai sinh là thay đổi, cải chính hộ tịch được quy định tại Nghị định 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ, cụ thể như sau:

    "Điều 36. Phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch

    Phạm vi thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch theo quy định tại Mục này bao gồm:

    1. Thay đổi họ, tên, chữ đệm đã được đăng ký đúng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng cá nhân có yêu cầu thay đổi khi có lý do chính đáng theo quy định của Bộ luật Dân sự.

    2. Cải chính những nội dung đã được đăng ký trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh, nhưng có sai sót trong khi đăng ký.

    3. Xác định lại dân tộc của người con theo dân tộc của người cha hoặc dân tộc của người mẹ theo quy định của Bộ luật Dân sự.

    4. Xác định lại giới tính của một người trong trường hợp giới tính của người đó bị khuyết tật bẩm sinh hoặc chưa định hình chính xác mà cần có sự can thiệp của y học nhằm xác định rõ về giới tính.

    5. Bổ sung những nội dung chưa được đăng ký trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.

    6. Điều chỉnh những nội dung trong sổ đăng ký hộ tịch và các giấy tờ hộ tịch khác, không phải Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh.

     

    Điều 37. Thẩm quyền thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch

    1. Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh trước đây có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi và bổ sung hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi;

    2. Ủy ban nhân dân cấp huyện, mà trong địa hạt của huyện đó đương sự đã đăng ký khai sinh trước đây, có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ đủ 14 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp, không phân biệt độ tuổi.

     

    Điều 38. Thủ tục đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch

    1. Người yêu cầu thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định), xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch và các giấy tờ liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch.

    Đối với trường hợp xác định lại giới tính, thì văn bản kết luận của tổ chức y tế đã tiến hành can thiệp để xác định lại giới tính là căn cứ cho việc xác định lại giới tính.

    Việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch cho người chưa thành niên hoặc người mất năng lực hành vi dân sự được thực hiện theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc người giám hộ.

    Đối với việc thay đổi họ, tên cho người từ đủ 9 tuổi trở lên và xác định lại dân tộc cho người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi trở lên, thì phải có sự đồng ý của người đó.

    2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch hoặc cán bộ Tư pháp của Phòng Tư pháp ghi vào Sổ đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch và Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ký và cấp cho đương sự một bản chính Quyết định cho phép thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của đương sự.

    Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

    Nội dung và căn cứ thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính phải được ghi chú vào cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh.

    3. Việc bổ sung hộ tịch được giải quyết ngay sau khi nhận đủ giấy tờ hợp lệ. Nội dung bổ sung được ghi trực tiếp vào những cột, mục tương ứng trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh. Cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng dấu vào phần ghi bổ sung. Cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và mặt sau của bản chính Giấy khai sinh phải ghi rõ nội dung bổ sung; căn cứ ghi bổ sung; họ, tên, chữ ký của người ghi bổ sung; ngày, tháng, năm bổ sung. Cán bộ Tư pháp hộ tịch đóng dấu vào phần đã ghi bổ sung.

    Trong trường hợp nội dung Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh trước đây không có cột mục cần ghi bổ sung, thì nội dung bổ sung được ghi vào mặt sau của bản chính Giấy khai sinh và cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh.

    Trong trường hợp việc đăng ký hộ tịch trước đây do Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện, nhưng sổ hộ tịch chỉ còn lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc bổ sung.

    4. Sau khi việc thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, bổ sung hộ tịch đã được ghi vào Sổ đăng ký khai sinh, thì bản sao Giấy khai sinh từ Sổ đăng ký khai sinh sẽ ghi theo nội dung đã thay đổi, cải chính hoặc bổ sung.

    5. Trong trường hợp nội dung bản chính Giấy khai sinh của cha, mẹ đã thay đổi do việc thay đổi, cải chính, bổ sung hộ tịch, xác định lại dân tộc, thì Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho người con, căn cứ vào bản chính Giấy khai sinh của cha, mẹ thực hiện việc điều chỉnh nội dung đó trong phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con cho phù hợp; nếu Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu tại Ủy ban nhân dân cấp huyện, thì Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện việc điều chỉnh.

     ".

    Như vậy, theo thông tin nêu trên thì UBND có thẩm quyền thu hồi lại bản chính giấy khai sinh có sai sót và cấp lại cho bạn giấy khai sinh mới với nội dung đúng với thông tin nhân thân của bạn. Bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng quy định nêu trên để giải quyết trường hợp của bạn . Việc cấp bản sao từ sổ gốc hoặc cấp bản sao từ bản chính không phải là thủ tục cải chính hộ tịch. 

  • Xem thêm     

    17/02/2017, 03:43:51 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 thì "Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. " "Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. " (Điều 609, 610). Thừa kế chia làm hai loại là thừa kế theo di chúc hoặc thừa kế theo pháp luật.

    Thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp sau đây:

    Không có di chúc;

    - Di chúc không hợp pháp;

    - Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;

    - Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

      Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:

    - Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;

    -  Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;

    -  Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế. (Điều 650 BLDS).

    Như vậy, trong trường hợp của gia đình bạn, ông bà bạn qua đời không để lại di chúc thì di sản của ông bà bạn sẽ được thừa kế theo pháp luật cho các hàng thừa kế theo quy định tại Điều 651 BLDS.

     

    2. Những người được hưởng thừa kế theo pháp luật: Theo quy định tại Điều 651 Bộ luật dân sự năm 2015 thì người được hưởng thừa kế được quy định như sau:

    Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    -  Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    - Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    - Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    -  Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản. 

    Ngoài ra, Điều 652 BLDS quy định về thừa kế thế vị như sau: " Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".

    Như vậy, theo các quy định pháp luật nêu trên thì hàng thừa kế thứ nhất của ông bà bạn chỉ còn hai người là hai cô bạn. Ngoài ra, nếu bố bạn mất trước hoặc mất cùng ông bà bạn thì bạn và hai chị gái bạn sẽ cùng được hưởng thừa kế với các cô của bạn theo quy định về thừa kế thế vị. Nếu bố bạn chết sau ông bà bạn thì di sản của ông bà bạn sẽ chia ba phần, mỗi cô bạn một phần, còn một phần sẽ chia cho mẹ bạn và ba chị em bạn. Di sản của ông bà bạn sẽ chia theo pháp luật gồm 3 phần, mỗi cô bạn hưởng 1/3, còn 1/3 di sản thuộc về chị em bạn (và mẹ bạn).

    Nếu trong quá trình quản lý di sản mà bố mẹ bạn có công sức duy tu, bảo quản tài sản hoặc có đóng góp thêm giá trị tài sản thì sẽ được trích phần công sức, chi trả giá trị tài sản trong khối di sản do ông bà bạn để lại trước khi chia cho các thừa kế.

     

    3. Thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với bất động sản theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2015 là 30 năm kể từ thời điểm người có di sản chết. Vì vậy, trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế nếu gia đình bạn không thống nhất được việc chia thừa kế đối với di sản mà ông bà bạn đã để lại thì một trong các bên có thể khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Cụ thể Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện thừa kế như sau:

     "Điều 623. Thời hiệu thừa kế

    1. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau:

    a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này;

    b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định tại điểm a khoản này.

    2. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

    3. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.".

     

    4. Chuyển tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Việc chuyển quyền sử dụng đất, chuyển tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông bà bạn sang cho bạn chỉ thực hiện được nếu có sự đồng ý của hai cô bạn hoặc thông qua thủ tục giải quyết tranh chấp về thừa kế. Nếu khởi kiện để tòa án giải quyết thì hai cô của bạn, mỗi cô sẽ được hưởng 1/3 di sản do ông bà bạn để lại. Vì vậy, trong vụ việc này tốt hơn hết là bạn nên thương lượng với hai cô của bạn để hai cô ký văn bản khai nhận thừa kế sang tên nhà đất cho bạn và bạn thanh toán một phần giá trị cho hai cô theo thỏa thuận.

  • Xem thêm     

    16/02/2017, 05:23:50 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !


    Theo thông tin bạn nêu thì người lái xe của gia đình bạn gây ra thiệt hại đến sức khỏe của người khác. Vì vậy, gia đình bạn có trách nhiệm phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho nạn nhân. Thiệt hại bao gồm tiền chi phí cứu chữa, tiền công người chăm sóc, tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút và khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần.

    Nếu hai bên không thỏa thuận được thì có thể đề nghị tòa án xem xét giải quyết theo quy định pháp luật. Nếu người lái xe của gia đình bạn có lỗi vi phạm các quy định của luật giao thông đường bộ, trực tiếp gây ra vụ tai nạn đó gây thiệt hại đến sức khỏe của nạn nhân từ 31% trở lên thì người lái xe còn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 BLHS.  

  • Xem thêm     

    16/02/2017, 11:13:06 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Theo quy định của luật đất đai thì người sử dụng đất đã được nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (cấp giấy chứng nhận ) thì có toàn quyền đối với diện tích đất đó, trong đó có quyền định đoạt tài sản. Quyền sử dụng đất đối với thửa đất đó chỉ bị hạn chế khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

    Vì vậy, nếu thừa đất đó chưa bị thu hồi, chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu dừng giao dịch thì người sử dụng đất vẫn có quyền thế chấp bằng toàn bộ thửa đất đó. 

    Điều 188 Luật Đất đai 2013 quy định các điều kiện để quyền sử dụng đất được phép giao dịch bao gồm:

    a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;

    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất”.

    Về quyền của người sử dụng đất khi đất đai nằm trong vùng quy hoạch, tại Khoản 2 và 3 Điều 49 Luật Đất đai 2013 quy định:

    Trường hợp quy hoạch sử dụng đất đã được công bố mà chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm cấp huyện thì người sử dụng đất được tiếp tục sử dụng và được thực hiện các quyền của người sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

    Trường hợp đã có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất trong khu vực phải chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất theo kế hoạch được tiếp tục thực hiện các quyền của người sử dụng đất nhưng không được xây dựng mới nhà ở, công trình, trồng cây lâu năm; nếu người sử dụng đất có nhu cầu cải tạo, sửa chữa nhà ở, công trình hiện có thì phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép theo quy định của pháp luật.

    Diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện đã được công bố phải thu hồi để thực hiện dự án hoặc phải chuyển mục đích sử dụng đất mà sau 3 năm chưa có quyết định thu hồi đất hoặc chưa được phép chuyển mục đích sử dụng đất thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất phải điều chỉnh, hủy bỏ và phải công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ việc thu hồi hoặc chuyển mục đích đối với phần diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất.

    Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt kế hoạch sử dụng đất không điều chỉnh, hủy bỏ hoặc có điều chỉnh, hủy bỏ nhưng không công bố việc điều chỉnh, hủy bỏ thì người sử dụng đất không bị hạn chế về quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 49 Luật Đất đai.

    Như vậy, căn cứ vào quy định của Luật Đất Đai thì việc quyền sử dụng đất nằm trong quy hoạch nếu chưa có kế hoạch sử dụng đất hàng năm của cấp huyện thì người sử dụng đất vẫn được thực hiện quyền của người sử dụng đất bao gồm quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất khi có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    16/02/2017, 10:17:46 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Nếu khu đất mà gia đình bạn sử dụng vẫn do Nhà nước quản lý. Xí nghiệp xe khách chỉ là doanh nghiệp thuê lại của nhà nước thì gia đình bạn và các hộ dân không được bồi thường về quyền sử dụng đất.

    Nếu ngôi nhà và các tài sản khác gắn liền với đất là tài sản do gia đình bạn bỏ tiền xây dựng thì gia đình bạn sẽ được bồi thường giá trị còn lại của tài sản gắn liền với đất và được hỗ trợ tái định cư, hỗ trợ di chuyển, việc làm... khi nhà nước thu hồi đất theo quy định của Luật đất đai năm 2013 và  các quy định của Nghị định số 47/2014/NĐ-CP.

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 04:15:14 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Vụ việc của công ty bạn là tranh chấp hợp đồng thuê xe vì vậy, nếu hai bên không thương lượng được thì có thể đưa đơn tới tòa án để được xem xét giài quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu một bên có lỗi làm cho hợp đồng không thể thực hiện được thì bên kia có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng. Nếu bên nào có lỗi, gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại. Bạn có thể tham khảo một số quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

    "Điều 428. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng

    1. Một bên có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp đồng hoặc các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

    2. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hợp đồng, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    3. Khi hợp đồng bị đơn phương chấm dứt thực hiện thì hợp đồng chấm dứt kể từ thời điểm bên kia nhận được thông báo chấm dứt. Các bên không phải tiếp tục thực hiện nghĩa vụ, trừ thỏa thuận về phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại và thỏa thuận về giải quyết tranh chấp. Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán phần nghĩa vụ đã thực hiện.

    4. Bên bị thiệt hại do hành vi không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng của bên kia được bồi thường.

    5. Trường hợp việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng không có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này thì bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng được xác định là bên vi phạm nghĩa vụ và phải thực hiện trách nhiệm dân sự theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan do không thực hiện đúng nghĩa vụ trong hợp đồng.

    Điều 429. Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng

    Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.".

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 04:01:25 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: "Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được".

    Theo hướng dẫn trước đây của TAND tối cao tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP thì được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:

    - Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.

    - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;

    Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.

    Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.

    Nếu bạn đã sống ly thân được 2 năm nay, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc nhau nữa, kinh tế riêng biệt, tình trạng này đã được gia đình, bạn bè hoặc cơ quan đoàn thể khuyên can nhưng không giải quyết được thì cũng là căn cứ xác định tình trạng hôn nhân trầm trọng.

    Vì vậy, nếu khi giải quyết ly hôn, có căn cứ xác định tình trạng hôn nhân của bạn đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được thuộc một trong các trường hợp nêu trên thì tòa án sẽ giải quyết cho bạn được đơn phương ly hôn. 

     

  • Xem thêm     

    15/02/2017, 11:22:23 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Nếu có tranh chấp về lối đi chung thì gia đình bạn có thể làm đơn yêu cầu UBND xã xem xét và hòa giải theo quy định pháp luật. Nếu hòa giải không thành thì có quyền khởi kiện để tòa án giải quyết. Nếu thửa đất của bạn bị bao bọc bởi các bất động sản khác thì tòa án sẽ buộc các chủ bất động sản khác phải dành cho gia đình bạn một lối đi thuận lợi nhất để làm ngõ đi.

  • Xem thêm     

    14/02/2017, 08:31:34 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định của bộ luật dân sự về quyền định đoạt thì chủ sở hữu tài sản có quyền định đoạt tài sản của mình. Theo đó, nếu cô gái kia xin tiền chồng bạn và chồng bạn cho tiền cô ta thì vợ chồng bạn không đòi lại được. Pháp luật quy định hợp đồng tặng cho đối với động sản có hiệu lực kể từ thời điểm giao nhận tài sản. Khi bên nhận tặng cho nhận được tài sản là hợp đồng có hiệu lực và bên tặng cho không đòi được tiền nữa.

    Nếu cô gái đó vay tiền của chồng bạn thì chồng bạn có quyền đòi lại số tiền vay đó. Nếu cô gái vay tiền không trả thì chồng bạn có quyền khởi kiện để đòi lại số tiền vay đó.

    Nếu cô gái đó còn quan hệ bất chính với chồng bạn, làm ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình bạn thì bạn có quyền kiến nghị với nhà trường để có sự động viên, khuyên bảo. 

    Trong vụ việc trên, để giữ được hạnh phúc gia đình thì phải bằng chính tình cảm của vợ chồng bạn và nhận thức của chồng bạn về vấn đề đó. Vì vậy, đối tượng cần tác động, khuyên can chủ yếu là chồng bạn chứ không phải là cô gái kia.

  • Xem thêm     

    14/02/2017, 08:04:57 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu người đó truy cập bất hợp pháp vào thư tín, điện tín của bạn thì đấy mới là hành vi vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý. Còn trong tình huống nêu trên, người ta lấy thông tin từ nhóm kín mà người đó có tham gia.Vì vậy, hành vi này chưa được coi là vi phạm thư tín. Nếu bí mật kinh doanh mà bạn đã chia sẻ trên mạng xã hội thì không còn gọi là bí mật nữa. Nếu bạn đã chia sẻ bí mật cho một người thì bằng cách này hay cách khác người ta có thể chia sẻ cho nhiều người khác. Vì vậy, trong vụ việc này chưa có căn cứ để bạn khiếu kiện người đó.

  • Xem thêm     

    13/02/2017, 04:07:22 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Theo thông tin bạn nêu thì sự việc bạn hỏi là quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình. Việc chồng đưa tiền cho vợ đóng góp vào kinh tế gia đình, để chi trả các khoản chi phí hàng ngày và chi phí chăm sóc, nuôi con là nghĩa vụ theo quy định của luật hôn nhân và gia đình. Cụ thể, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: 

    "Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

    1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

    2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác. 

    Điều 29. Nguyên tắc chung về chế độ tài sản của vợ chồng

    1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

    2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

    3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường. ".

    Như vậy, pháp luật quy định vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình, có nghĩa vụ để đảm bảo điều kiện đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. '

    Tuy nhiên, pháp luật không quy định chế tài khi một bên vi phạm nghĩa vụ này. Vì vậy, nếu chồng bạn không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ đóng góp tài chính, lại còn ngoại tình thì bạn có thể khuyên can, yêu cầu chồng có trách nhiệm. Đồng thời, bạn có thể nhờ bạn bè, gia đình hoặc chính quyền đoàn thển khuyên can... để chồng bạn nhận ra sai lầm của mình, sửa chữa và có trách nhiệm với gia đình hơn.

    Nếu việc khuyên can, chỉ bảo của bạn bè, gia đình, đoàn thể vẫn không có kết quả, chồng bạn vẫn thiếu trách nhiệm với vợ con, vẫn tiếp tục ngoại tình thì bạn có quyền gửi đơn đề nghị tòa án xem xét giải quyết cho ly hôn theo quy định pháp luật.  

     

344 Trang «<12131415161718>»