Chào bạn,
Dựa vào những thông tin mà bạn cung cấp tôi xin có một số ý kiến đóng góp như sau:
Thứ nhất, dù gia đình bạn gây ra tai nạn do tránh một xe phanh gấp nhưng bạn vẫn sẽ phải chịu bồi thường thiệt hại cho nạn nhân vì khi tham gia giao thông, người trực tiếp lái xe phải có trách nhiệm giữ một khoảng cách an toàn với xe đằng trước để nếu có vấn đề gì xảy ra vẫn có thể xử lý kịp. Nhưng ở đây, theo quan điểm của tôi, thì bên gia đình bạn đã không giữ được mức khoảng cách an toàn với chiếc xe phanh gấp đó nên mới xảy ra tình huống đáng tiếc như vậy.
Vấn đề bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm trước hết do các bên tự thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường. Nếu các bên không thể tự thỏa thuận được thì sẽ đề nghị tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Việc bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm được quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015 thì việc bồi thường thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:
“1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:
a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;
b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;
c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;
d) Thiệt hại khác do luật quy định.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
Thứ hai, người trực tiếp lái chiếc xe gây ra tai nạn còn có thể bị truy cứu TNHS về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định định tại Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009):
“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;”
c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.”
Đồng thời theo Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự thì:
“4. Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng", "gây hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự được quy định như sau:
4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:
a. Làm chết một người;
b. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;
c. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;
d. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;
e. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng”
Do đó nếu nạn nhân bị thương tích trên 31% thì tài xế của gia đình sẽ bị truy cứu trách nhiệm theo Khoản 1 Điều 202 của Bộ luật Hình sự. Mặc dù bạn có nói rằng “người này vẫn rất tỉnh táo và chửi gia đình em rất nhiều, doạ giết gia đình em” nhưng rất có thể đó chỉ là ý nghĩ chủ quan của bạn thôi nên để cho chắc chắn bạn nên đề nghị gia đình nạn nhân hoặc nhờ bệnh viện hợp tác cung cấp hồ sơ bệnh án để có thể xác định được chính xác nhất mức thương tật của nạn nhân.
Tuy nhiên thì gia đình bạn đã có những hành vi hối cải, hợp tác nhiệt tình, không bỏ trốn và đã bồi thường trước một khoản tiền cho nạn nhân nên đây có thể được xem là một tình tiết giảm nhẹ.
Thứ ba, về việc gia đình nạn nhân liên tục dọa nạt và uy hiếp gia đình bạn về tiền bồi thường thì bạn có thể nhờ cơ quan có thẩm quyền can thiệp để giải quyết. Nhưng theo quan điểm của tôi, gia đình bạn vẫn nên thỏa thuận lại một lần nữa với gia đình nạn nhân. Nếu trong trường hợp gia đình bên đó vẫn không chấp nhận thương lượng và kiên quyết giữ thái độ hăm dọa như vậy thì bạn có thể yêu cầu tòa án giải quyết bồi thường theo quy định của pháp luật để tình trạng này mau chóng được xử lý.
Trên đây là ý kiến tư vấn của tôi về câu hỏi của bạn. Việc đưa ra ý kiến tư vấn nêu trên căn cứ vào các quy định của pháp luật và thông tin do bạn cung cấp. Mục đích đưa ra nội dung tư vấn này là để bạn tham khảo thêm.
Trường hợp trong nội dung tư vấn có điều gì gây nhầm lẫn, chưa rõ ràng hoặc thông tin nêu trong nội dung tư vấn khiến bạn chưa hiểu hết vấn đề hoặc/ và có sự vướng ngại, thắc mắc, tôi rất mong nhận được ý kiến phản hồi của bạn.
Mọi vướng mắc vui lòng liên hệ theo thông tin đính kèm bên dưới.
Trân trọng./.
BỘ PHẬN TƯ VẤN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ - HÀNH CHÍNH | CÔNG TY LUẬT VIỆT KIM
M: (+84-4) 32.123.124; (+84-4) 32.899.888 - E: cle.vietkimlaw@gmail.com; luatvietkim@gmail.com - W: www.vietkimlaw.com
Ad: Trụ sở chính - Tầng 5, Tòa nhà SHB, 34 Giang Văn Minh, Ba Đình, HN | VPGD - Tầng 5, Nhà C, 236 Hoàng Quốc Việt, Cầu Giấy, HN.