Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    18/08/2013, 04:30:37 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Trường hơp của bạn rất khó có căn cứ pháp lý để yêu cầu ai đó phải bồi thường cho bạn.

    - Nếu xe không có vé trông giữ xe thì người trông xe tại sân đó sẽ không có trách nhiệm với bạn.

    - Bạn không ký hợp đồng với công ty nên không có căn cứ pháp lý để quy trách nhiệm cho công ty.

    - Người ở công ty nói với bạn là không cần vé xe cũng không phải là căn cứ pháp lý vững chắc để bạn yêu cầu bồi thường thiệt hại mặc dù nguyên tắc là nguồi nào có lỗi gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường.

    Do vậy, bạn chỉ còn cách là thương lượng, đàm phán với công ty để được hỗ trợ.

  • Xem thêm     

    18/08/2013, 04:12:58 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu chiếc xe của bạn là tang vật của vụ án, thì sau khi giám định, thẩm định chiếc xe đó để làm căn cứ giải quyết vụ án thì gia đình bạn sẽ được nhận lại xe. Nếu gia đình bạn bị thay thế phụ tùng thì có thể khiếu nại đối với cơ quan điều tra đó.

  • Xem thêm     

    18/08/2013, 09:11:08 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Đứa con 1 tuổi của vợ chồng bạn sẽ do vợ bạn nuôi dưỡng sau ly hôn. Với đứa trẻ 4 tuổi: Nếu bạn có đầy đủ chứng cứ chứng minh được nếu con bạn sống với bạn thì đứa trẻ sẽ phát triển tốt về thể chất, tinh thần và điều kiện học tập. Bạn cần thu thập chứng cứ về thu nhập của bạn ổn định; Nơi ở của bạn ổn định; Bạn có kiến thức, kỹ năng về việc nuôi trẻ... Chứng cứ đó có thể thể hiện bằng bản tự khai, giấy xác nhận, biên bản xác minh của luật sư hoặc của tòa án...

            Việc xét xử tại tòa án VN hiện nay vẫn "trọng chứng hơn trọng cung", "án tại hồ sơ" nên bạn cung cấp được nhiều chứng cứ có lợi, trong hồ sơ vụ án thể hiện ưu thế của bạn trong việc giành quyền nuôi con thì bạn sẽ được tòa án giao cho nuôi con sau khi ly hôn.

  • Xem thêm     

    18/08/2013, 08:59:43 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc cung cấp thông tin về quản lý đất đai, hồ sơ địa chính... được quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ tài nguyên và Môi trường. Bạn có thể tham khảo quy định tại văn bản trên để áp dụng cho trường hợp của gia đình bạn. Nếu vụ việc tranh chấp đất đai được Tòa án giải quyết thì các đương sự có thể căn cứ vào quy định tại Điều 7 và Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự để yêu cẩu cơ quan đang lưu giữ chứng cứ phải cung cấp cho đương sự hoặc cho tòa án.

  • Xem thêm     

    18/08/2013, 08:49:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu mất giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì có thể xin cấp lại. Nếu phần diện tích 200m2 gia đình bạn chưa chuyển nhượng, chưa được cấp GCN QSD đất thì vẫn có quyền kê khai xin cấp GCN QSD đất. Nguồn gốc diện tích đất này có thể khai giống nguồn gốc với diện tích 400m2. Nếu diện tích đất đó đủ điều kiện cấp GCN QSD đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai (sử dụng ổn định hoặc có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch) thì gia đình bạn sẽ được cấp GCN QSD đất.

    Việc của gia đình bạn cũng cần xem lại khi chuyển nhượng thỏa thuận là gia đình bạn chuyển nhượng bao nhiêu m2 đất? Bàn giao bao nhiêu m2 đất? Diện tích đất còn lại ai là người quản lý, sử dụng từ đó tới nay... Nếu người nhận chuyển quyền sử dụng đất của gia đình bạn có tranh chấp đối với phần diện tích đất chưa được cấp GCN QSD đất đó thì phải giải quyết tranh chấp đất đai xong thì mới được cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    17/08/2013, 09:58:48 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            - Nếu trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ghi là "sử dụng chung" thì quyền sử dụng đất được xác định là tài sản chung của các đồng sở hữu (thường là lối đi hoặc đất xây dựng nhà chung cư, tập thể..). Bạn không thể "đính chính" từ "sử dụng chung" thành "sử dụng riêng" được. Việc đính chính giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chỉ được thực hiện nếu thông tin ghi trên GCN QSD đất đó có sai sót.

             - Nếu quyền sử dụng đất đó là tài sản chung theo phần có thể phân chia theo quy định của bộ luật dân sự thì bạn có thể thỏa thuận với các đồng sở hữu khác để phân chia, xác định phần "riêng" của bạn trong khối tài sản chung đó. Sau đó dùng phần tài sản thuộc sở hữu riêng để thế chấp.

            - Nếu quyền sử dụng đất đó là tài sản thuộc quyền sở hữu chung không thể phân chia thì việc thế chấp phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng sở hữu khối bất động sản đó.

  • Xem thêm     

    17/08/2013, 09:47:57 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    - Nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho "hộ gia đình" trong đó có bố mẹ mà bố mẹ qua đời không để lại di chúc thì "phần" di sản của bố mẹ  trong khối tài sản chung của "Hộ gia đình" sẽ được phân chia theo pháp luật cho ông bà(nếu còn sống) và các con - trừ trường hợp các thừa kế có thỏa thuận khác. Cụ thể những người thừa kế được quy định tại Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005 như sau:

    "Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật 

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

  • Xem thêm     

    17/08/2013, 08:42:39 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn cũng có thể tham khảo thêm nội dung quy định tại: Nghị quyết Số 02/2000/NĐ-HĐTP ngày 23 tháng 12 năm 2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn Áp dụng một số quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2000, cụ thể như sau:
    "Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn (Điều 92).
    Khi áp dụng quy định tại Điều 92 cần chú ý một số điểm sau đây:
    a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 92 thì người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Đây là nghĩa vụ của cha, mẹ; do đó, không phân biệt người trực tiếp nuôi con có khả năng kinh tế hay không, người không trực tiếp nuôi con vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
    Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cấp dưỡng vì lý do nào đó thì Toà án cần giải thích cho họ hiểu rằng việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là quyền lợi của con để họ biết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con. Nếu xét thấy việc họ không yêu cầu cấp dưỡng là tự nguyện, họ có đầy đủ khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con thì Toà án không buộc bên kia phải cấp dưỡng nuôi con.
    b. Tiền cấp dưỡng nuôi con bao gồm những chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì tuỳ vào từng trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý.
    c. Về phương thức cấp dưỡng do các bên thoả thuận định kỳ hàng tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì Toà án quyết định phương thức cấp dưỡng định kỳ hàng tháng.
    d. Trong trường hợp vợ, chồng không thoả thuận được về người trực tiếp nuôi con thì Toà án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi con căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần. Nếu con từ đủ chín tuổi trở lên, thì trước khi quyết định, Toà án phải hỏi ý kiến của người con đó về nguyện vọng được sống trực tiếp với ai.
    Về nguyên tắc, con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi con, nếu các bên không có thoả thuận khác.
    ".

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 10:42:52 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn! Điều 42 luật khiếu nại năm 2011 quy định: "Khởi kiện vụ án hành chính Hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 37 của Luật này mà khiếu nại không được giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.". Do vậy, nếu trường hợp của bạn đủ điều kiện áp dụng Điều 42 Luật khiếu nại thì bạn có quyền khởi kiện vụ án hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính hiện hành.
  • Xem thêm     

    16/08/2013, 10:19:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    1. Nếu ông B có GCN QSD đất hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1, 2 hoặc khoản 5, Điều 50 Luật đất đai đối với phần diện tích đất tranh chấp và chưa chuyển quyền sử dụng đất cho ông A thì ông B có quyền khởi kiện để đòi lại diện tích lối đi đó;

    2. Nếu trường hợp sử dụng đất của 16 hộ đó thuộc trường hợp quy định tại Điều 275 Bộ luật dân sự thì có quyền yêu cầu Tòa án buộc ông B phải dành cho các hộ một lối đi hợp lý và các hộ thanh toán giá trị quyền sử dụng đất cho ông B theo giá đất mà Hội đồng định giá quyết định;

    3. Trong vụ việc trên, ông A cũng phải có trách nhiệm. Nếu ông A không can thiệp giúp các gia đình đó thì các gia đình có thể khởi kiện tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất để yêu cầu ông A thực hiện nghĩa vụ của bên chuyển nhượng.

    4. Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

    "Ðiều 275. Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề

    1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thỏa thuận khác.

    Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

    2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

    3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Ðiều này mà không có đền bù."

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 09:07:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    - Việc chuyển nhượng của gia đình bạn chưa phù hợp với quy định của pháp luật nhưng nếu đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai thì vẫn được công nhận việc chuyển nhượng. Tuy nhiên, nếu trong sổ địa chính hoặc sổ đăng ký ruộng đất vẫn còn tên người chủ đất cũ thì phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ có tên của người đó ( bồi thường cho người đó).

    - Nếu gia đình bạn không còn bản chính giấy tờ về việc chuyển nhượng thì không còn căn cứ để khởi kiện. Đồng thời, gia đình bạn phải chứng minh được việc gia đình bạn bị ép ký vào văn bản thỏa thuận đó.

    - Ngoài ra, nếu có tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào ý chí thực của hai bên khi giao kết hợp đồng và quá trình sử dụng đất để giải quyết. Bạn có thể tham khảo thêm quy định tại Nghị quyết sốế 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để biết về đường hướng giải quyết các vụ án về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    - Để giải quyết vụ việc đó gia đình bạn cần yêu cầu UBND xã hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai (một số tòa án xác định vụ việc của bạn là tranh chấp hợp đồng chứ không phải tranh chấp về quyển sử dụng đất nên không bắt buộc phải hòa giải). Nếu hòa giải không thành thì gia đình bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 02:27:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được quy định tại  Nghị định 88/2009/NĐ-CP Về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất , cụ thể như sau:

    "Điều 14. Hồ sơ và trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp thửa đất không có tài sản gắn liền với đất hoặc có tài sản nhưng không có nhu cầu chứng nhận quyền sở hữu hoặc có tài sản nhưng thuộc quyền sở hữu của chủ khác

    1. Người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp một (01) bộ hồ sơ gồm:

    a) Đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận;

    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật Đất đai (nếu có);

    c) Bản sao các giấy tờ liên quan đến việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật (nếu có).

    2. Trường hợp người đề nghị cấp Giấy chứng nhận nộp hồ sơ tại Ủy ban nhân dân xã, thị trấn thì Ủy ban nhân dân xã, thị trấn có trách nhiệm thực hiện các công việc sau đây:

    a) Kiểm tra, xác nhận vào đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận về tình trạng tranh chấp quyền sử dụng đất; trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì kiểm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp sử dụng đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đã được xét duyệt.

    Trường hợp chưa có bản đồ địa chính thì trước khi thực hiện các công việc tại điểm này, Ủy ban nhân dân xã, thị trấn phải thông báo cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện thực hiện trích đo địa chính thửa đất;

    b) Công bố công khai kết quả kiểm tra tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã, thị trấn trong thời hạn 15 ngày; xem xét giải quyết các ý kiến phản ánh về nội dung công khai;

    c) Gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện nơi có đất để thực hiện các công việc quy định tại các điểm b, c và d khoản 3 Điều này.

    3. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện có trách nhiệm thực hiện các nội dung công việc sau:

    a) Gửi hồ sơ đến Ủy ban nhân dân cấp xã để lấy ý kiến xác nhận và công khai kết quả theo yêu cầu quy định tại các điểm a và b khoản 2 Điều này đối với trường hợp nộp hồ sơ tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp huyện;

    b) Kiểm tra hồ sơ, xác minh thực địa trong trường hợp cần thiết; xác nhận đủ điều kiện hay không đủ điều kiện được chứng nhận về quyền sử dụng đất vào đơn đề nghị cấp Giấy chứng nhận;

    c) Chuẩn bị hồ sơ kèm theo trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất (đối với nơi chưa có bản đồ địa chính) để Phòng Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân dân cùng cấp ký Giấy chứng nhận và ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất;

    d) Trao Giấy chứng nhận cho người được cấp giấy, trường hợp nộp hồ sơ tại xã, thị trấn thì gửi Giấy chứng nhận cho Ủy ban nhân dân xã, thị trấn để trao cho người được cấp giấy.".

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 02:13:49 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Việc ký giấy nhận nợ, vay nợ nhưng thực tế không giao tiền thì giấy đó không có giá trị pháp lý. Nếu đưa ra pháp luật mà công an chứng minh có việc đánh đề thì cả hai sẽ bị xử lý về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật hình sự. Do vậy, bạn cần cân nhắc phương án giải quyết sao cho hợp lý nhất.

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 09:49:42 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được Bộ luật dân sự quy định như sau:

    "Ðiều 650. Di chúc bằng văn bản

    Di chúc bằng văn bản bao gồm:

    1. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng;

    2. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng;

    3. Di chúc bằng văn bản có công chứng;

    4. Di chúc bằng văn bản có chứng thực.

    Ðiều 652. Di chúc hợp pháp

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

     

    Ðiều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

    1. Di chúc phải ghi rõ:

    a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

    b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

    c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

    d) Di sản để lại và nơi có di sản;

    đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

    2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

    Ðiều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

    Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

    1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

    2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

    3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

    Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật 

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.".

                Theo thông tin bạn nêu, đối chiếu với các quy định pháp luật nêu trên thì di chúc do ông B lập không đảm bảo giá trị hiệu lực bởi các lý do sau:

    - Chưa có căn cứ xác định ông B có toàn quyền quyết định đối với di sản (ngôi nhà);

    - Người làm chứng không đủ điều kiện làm chứng theo quy định tại Điều 654 Bộ luật dấn sự.

    Di chúc phải đảm bảo điều kiện theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự mới là di chúc hợp pháp...

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 09:33:42 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình thì con chưa đủ 36 tháng tuổi thì sẽ giao cho mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn (trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác). Đối với con từ 36 tuổi trở lên mà có tranh chấp về quyền nuôi con thì Tòa án sẽ giao con cho bố hoặc mẹ nuôi dưỡng trên cơ sở đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con (phát triển tốt về thể chất, tinh thần và điều kiện học tập).

    Bạn tham khảo quy định của Luật hôn nhân và gia đình sau đây:

    "Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.".

  • Xem thêm     

    16/08/2013, 08:31:04 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo quy định của pháp luật thì việc cho thuê quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng và phải được đăng ký theo quy định pháp luật (Điều 705 Bộ luật dân sự). Gia đình bạn cho thuê quyền sử dụng đất thời hạn 10 năm nhưng không công chứng hợp đồng, không đăng ký là vi phạm về hình thức và thủ tục theo quy định pháp luật. Nếu có tranh chấp hợp đồng thuê đất đó thì Tòa án sẽ dành thời gian để hai bên thực hiện thủ tục đăng ký. Nếu hai bên không thực hiện thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự: Hợp đồng không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên; Các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; Bên nào có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

  • Xem thêm     

    14/08/2013, 10:51:19 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Với tài sản riêng của các bên là bất động sản hoặc tài sản có đăng ký quyền sở hữu mà vợ chồng bạn muốn nhập thành tài sản chung thì vợ chồng bạn cần lập Văn bản thỏa thuận về tài sản, trong đó có nội dung là chuyển từ tài sản riêng thành tài sản chung, có danh sách kèm theo và mô tả cụ thể tài sản. Sau khi văn bản đó được lập, ký kết và công chứng thì vợ chồng bạn phải tiến hành thủ tục đăng ký sang tên theo quy định pháp luật đối với mỗi loại tài sản.

  • Xem thêm     

    12/08/2013, 11:27:01 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Nếu bạn nộp đơn xin ly hôn thì bạn phải có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Nếu Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 mà bạn vẫn không đến thì Tòa án có thể coi như bạn đã từ bỏ yêu cầu khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án.

    - Thời gian chuẩn bị xét xử là 4 -6 tháng. Nếu vụ việc phức tạp, cần thu thập nhiều chứng cứ thì thời hạn thường lâu hơn luật định;

    - Nguyên tắc chia tài sản vợ chồng khi ly hôn căn cứ vào Điều 95 Luật hôn nhân và gia đình: Chia đôi, có tính đến nguồn gốc tài sản và công sức đóng góp mỗi bên, ưu tiên quyền lợi phụ nữ, trẻ em..

  • Xem thêm     

    12/08/2013, 08:08:56 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    - Điều 27, Luật hôn nhân và gia đình quy định Tài sản chung vợ chồng như sau:

    "1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

    2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung. ".

    - Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình được Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán, TAND tối cao hướng dẫn như sau:

    ""khoản 2 Điều 27 quy định: "Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ và chồng".
    Thực tiễn cho thấy chỉ có tài sản rất lớn, rất quan trọng đối với đời sống gia đình thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu mới ghi tên của cả vợ chồng (như: nhà ở, quyền sử dụng đất...), song cũng không phải trong mọi trường hợp. Đối với các tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận thường chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng (như: xe môtô, xe ôtô, tàu, thuyền vận tải...). Mặt khác, khoản 1 Điều 32 đã quy định cụ thể về tài sản riêng của vợ chồng. Để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên, trong trường hợp tài sản do vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn nhân mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng trong giấy chứng nhận quyền sở hữu chỉ ghi tên của vợ hoặc chồng, nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu không có tranh chấp thì đó là tài sản chung của vợ chồng; nếu có tranh chấp là tài sản riêng thì người có tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải chứng minh được tài sản này do được thừa kế riêng, được tặng riêng trong thời kỳ hôn nhân hoặc tài sản này có được từ nguồn tài sản riêng quy định tại khoản 1 Điều 32 (ví dụ: được thừa kế riêng một khoản tiền và dùng khoản tiền này mua cho bản thân một chiếc xe môtô mà không nhập vào khối tài sản chung của vợ chồng). Trong trường hợp không chứng minh được tài sản đang có tranh chấp này là tài sản riêng thì theo quy định tại khoản 3 Điều 27 tài sản đó là tài sản chung của vợ chồng
    .".

    Như vậy, theo các quy định pháp luật trên thì nhà đất đó là tài sản chung của vợ chồng bạn, khi ly hôn sẽ chia đôi theo quy định tại Điều 95 và Điều 98 Luật hôn nhân và gia đình. Nếu chồng bạn không muốn chia tài sản thì phải chứng minh được nhà đất đó là tài sản riêng của chồng bạn theo quy định tại Điều 32 Luật hôn nhân và gia đình.

  • Xem thêm     

    11/08/2013, 03:19:25 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Án phí dân sự thì bạn phải trả với nhà nước còn tiền nợ thì bạn phải trả cho chủ nợ. Hiện nay, bạn chưa có khả năng trả nợ, chưa đủ điều kiện thi hành án thì khi nào bạn có điều kiện thì cơ quan thi hành án sẽ thi hành.

    Vấn đề khởi kiện là ở chỗ: Nếu quá thời hạn trả nợ 2 năm mà người cho vay không kiện thì sẽ mất quyền khởi kiện. Từ thời điểm án có hiệu lực thì sẽ tính lãi suất ngân hàng cho đến khi người vay trả hết nợ. Ngươi đi đòi nợ là cơ quan thi hành án chứ không còn là chủ nợ... Vì vậy, buộc người cho vay tiền phải kiện để được pháp luật can thiệp.