Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    21/08/2012, 01:55:03 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

           Nếu nhà đất có nguồn gốc là chính quyền giao cho hộ gia đình hoặc Nhà nước công nhận cho hộ gia đình hoặc hộ gia đình cùng nhận chuyển nhượng... thì mới là tài sản của hộ gia đình. Việc cấp GCN QSD đất, QSH nhà ở cho hộ gia đình còn nhiều sai sót và "hộ gia đình" là gì cũng còn là vấn đề nhiều tranh luận...

          Còn nhà đất theo bác trình bày thì có nguồn gốc do cha mẹ bác mua nên là tài sản chung của cha mẹ bác. Nếu cha hoặc mẹ bác qua đời và làm thủ tục cấp lại GCNQ SD đất thì mới là tài sản chung của hộ gia đình (theo thừa kế). Các con của bác không phải là đồng sở hữu khối tài sản trên. Trừ trường hợp nhà đất do khai hoang hoặc được chính quyền chia, phân, giao cho gia đình bác hoặc các con bác có công sức đóng góp vào việc phát triển khối tài sản đó...

  • Xem thêm     

    21/08/2012, 12:51:41 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Theo thông tin bạn nêu thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của vợ chồng bạn với em chồng có thể được pháp luật công nhận căn cứ vào khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 hoặc quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán, TAND tối cao.

             Điều 129 BLDS năm 2005 quy định: "Khi các bên xác lập giao dịch dân sự một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác thì giao dịch giả tạo vô hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp giao dịch đó cũng bị vô hiệu theo quy định của bộ luật này.".

              Do vậy, nếu chồng bạn lập hợp đồng giả tạo (hợp đồng tặng cho riêng chồng bạn) nhằm tẩu tán tài sản chung vợ chồng thì bạn có thể yêu cầu tòa án tuyên bố hủy bỏ hợp đồng tặng cho riêng đó.  Tuy nhiên, bạn cũng cần xuất trình chứng cứ về hợp đồng năm 2004 và chứng cứ về việc thanh toán tiền và nhận sử dụng đất để tòa án xem xét, công nhận hợp đồng chuyển nhượng đó.

              Trong các vụ án ly hôn có tranh chấp về tài sản thì việc tẩu tán tài sản thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên việc tẩu tán tài sản chỉ có thể thực hiện được nếu Tòa án làm ngơ đồng thời phía bên kia không biết cách tự bảo vệ mình.

  • Xem thêm     

    20/08/2012, 10:46:11 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Với biên bản đối chiếu công nợ ghi nội dung: "Đến ngày 20/6/...... công ty..... còn nợ anh chị bạn số tiền là 150trđ..." là có đủ căn cứ để anh chị bạn khởi kiện để đòi nợ số tiền trên.

  • Xem thêm     

    20/08/2012, 10:40:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              1. Theo thông tin bạn nêu thì bạn đã mua nhà của ông Sự và mọi thủ tục mua bán đã hoàn tất. Số tiền 900trđ chưa trả đã chuyển thành khoản nợ của bạn với ông Sự (Hợp đồng vay tài sản). Do vậy, ông Sự chỉ có quyền đòi bạn số tiền trên chứ không có quyền đòi nhà nữa;

             2. Bạn chỉ có nghĩa vụ với ông Sự chứ không có nghĩa vụ với ông Hiền, do vậy Giấy nhận nợ với ông Hiền là không đúng pháp luật. Ông Hiền chỉ là người đại diện của ông Sự.

            3. Việc bạn bán nhà cho ông Nam là một quan hệ dân sự khác. Ông Nam phải có nghĩa vụ trả tiền mua nhà đất cho bạn. Còn số tiền bạn nợ ông Sự thì bạn có nghĩa vụ trả trừ trường hợp các bên có văn bản thỏa thuận bù trừ, đối trừ nghĩa vụ với nhau.

             4. Nay nếu ông Nam không trả tiền cho bạn thì bạn có thể khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng và đòi lại nhà. Nếu ông Sự muốn đòi tiền bạn thì phải khởi kiện một vụ án khác. Nếu bạn không nhận tiền của ông Hiền thì không có nghĩa vụ gì với ông Hiền.

     

     

  • Xem thêm     

    20/08/2012, 10:30:46 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Ðiều 679 BLDS quy định:

    "Quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế

    Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Ðiều 676 và Ðiều 677 của Bộ luật này.".

    Như vậy, nếu ông bà bạn nuôi bác cả từ nhỏ thì bác cả cũng là thừa kế của ông bạn theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS. Trong trường hợp này, kể cả di chúc của ông nội bạn không hợp pháp thì các cô,chú bạn và bố bạn cũng không thể đòi chia thừa kế được nữa bởi đã hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế.

    Theo bạn trình bày thì ông bạn có di chúc có chứng thực của UBND xã. Nếu gia đình bạn không chứng minh được di chúc đó lập không đúng thủ tục, ông bạn không minh mẫn thì mặc nhiên di chúc đó có hiệu lực pháp luật.

           Đến nay, cả phần di sản của ông bạn và bà bạn đểu đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế nên cơ hội yêu cầu chia thừa kế, chia tài sản chung của bố bạn và các cô chú là khó có thể thực hiện được: Trừ trường hợp bác cả của bạn không đủ điều kiện hưởng di sản thừa kế của ông bạn theo Điều 679 BLDS và Di chúc của ông bạn không hợp pháp.

     

     

  • Xem thêm     

    20/08/2012, 10:11:28 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 35 BLTTDS sửa đổi năm 2011 quy định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ như sau:

    1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.

    2. Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

    b) Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;

    c) Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết;

    d) Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài;

    đ) Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;

    e) Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;

    g) Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;

    h) Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;

    i) Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;

    k) Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;

    l) Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;

    m) Tòa án nơi Phòng công chứng, Văn phòng công chứng đã thực hiện việc công chứng có trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu;

    n) Tòa án nơi Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật;

    o) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.”.

           Như vậy, chị bạn phải xác định được nơi chồng chị bạn đang cư trú (tạm trú) làm việc thì mới xác định được tòa án có quyền giải quyết vụ án ly hôn trên. Tại Điểm đ, khoản 2, Điều 164 BLTTDS cũng quy định nội dung của đơn khởi kiện bắt buộc phải có tên, địa chỉ của người bị kiện. Nếu chị bạn không có được địa chỉ của người bị kiện thì đơn khởi kiện không hợp lệ và tòa án sẽ không thụ lý.

           Nếu chị bạn không thể tìm được địa chỉ của anh rể bạn thì chỉ còn cách là thực hiện thủ tục yêu cầu Tòa án nơi anh rể bạn cư trú cuối cùng tuyên bố anh rể bạn mất tích và xin được ly hôn với người mất tích theo quy định tại khoản 2, Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

     

  • Xem thêm     

    20/08/2012, 09:54:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Nều nhà ở của gia đình bạn nằm trong khu vực đã có quy hoạch xây dựng (việc xây nhà bắt buộc phải xin phép xây dựng...) thì mọi việc bạn sửa chữa làm thay đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực của ngôi nhà đều phải xin cấp phép sửa chữa.

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 03:42:11 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Về tình cảm thì tại Tòa án sơ thẩm, chồng bạn cũng đã đồng ý ly hôn. Như vậy vụ việc của bạn chỉ có tranh chấp về việc nuôi con. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi sẽ giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Do vậy, Tòa án phúc thẩm sẽ giữ nguyên bản án sơ thẩm.

              Tại cấp xét xử phúc thẩm, Tòa án cũng sẽ hòa giải để vợ chồng đoàn tụ và thống nhất với nhau về các vấn đề tranh chấp. Trong vụ việc của bạn nếu bạn không đồng ý để chồng bạn nuôi con thì Tòa án sẽ giữ nguyên bản án sơ thẩm là công nhận thỏa thuận ly hôn và giao con cho bạn nuôi. Ngoài ra, bạn còn có quyền yêu cầu chồng bạn phải có trách nhiệm cấp dưỡng cho con cho đến khi con bạn trưởng thành.

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 03:27:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Việc cấp GCN QSD đất của gia đình bạn là không đúng pháp luật. Một thửa đất không thể có hai GCN QSD đất hợp pháp. Nếu diện tích đất gia đình bạn đang sử dụng đã có quyết định giao đất và GCN QSD đất của UBND tỉnh cấp cho nhà trường thì nhà trường có thể đòi lại thửa đất đó của gia đình bạn bất cứ khi nào.

             Bạn chưa nói rõ là gia đình bạn sử dụng thửa đất đó từ khi nào? Cơ quan, tổ chức nào giao đất đó cho gia đình bạn sử dụng? UBND huyện cấp GCN QSD đất cho gia đình bạn căn cứ vào văn bản nào? Do vậy, chưa thể xác định được chính xác là gia đình bạn có thể được bồi thường khi bị thu hồi đất  hay không.

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 03:19:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Nếu đến cơ quan điều tra, bạn đó thừa nhận là chặn đường để lấy tài sản của người đi đường. Việc chưa lấy được tài sản là do bị phát hiện và bắt giữ thì bạn đó vẫn có thể bị xử lý về tội cưỡng đoạt tài sản hoặc tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS (phạm tội chưa đạt). Nếu người đi đường chưa bị ngã xe nhưng với hành vi căng dây thừng đó có thể gây nguy hiểm, nguy hại cho người đi đường thì cũng có thể bị xử lý hình sự.

             Nếu vụ việc chỉ dừng lại ở việc căng dây thừng để chặn xe. Khi thấy xe dừng lại thì bỏ chạy.. rồi bị bắt. Trong khoảng thời gian đó không có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc... đồng thời bạn đó chỉ thừa nhận là hành động căn dây là nghịch ngợm dại, dột chứ không có mục đích chiếm đoạt tài sản... thì chưa có căn cứ để xử lý hình sự.

            Trong vụ việc trên, nếu luật sư tham gia vụ việc từ sớm thì mới mong bảo vệ được quyền lợi tốt nhất cho bạn đó theo quy định pháp luật.

     

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 03:07:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất của gia đình bạn là Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Do vậy, để xác định diện tích đất của gia đình bạn thì trước tiên căn cứ vào diện tích đất ghi trên Hợp đồng chuyển nhượng. Ngoài ra, còn có biên bản họp gia đình cũng xác định lại diện tích mua bán, chuyển nhượng là 400m2, trong khi đó bố bạn không có chứng cứ gì chứng minh là mình bị ép buộc, lừa dối để ký vào biên bản đó... Nên chính quyền xác định diện tích đất của gia đình bạn là 400m2 là có căn cứ.

           Tuy nhiên, nếu gia đình bạn có biên bản bàn giao diện tích, mốc giới đất hoặc có chứng cứ chứng minh diện tích mua bán thực tế lớn hơn diện tích mua bán ghi trong Hợp đồng chuyển nhượng hoặc trong bản đồ địa chính đo đạc lại sau năm 1994 của địa phương thể hiện diện tích đất đang sử dụng của gia đình bạn là một thửa đất riêng biệt theo hiện trạng thì gia đình bạn mới có cơ hội được cấp GCN QSD đất đối vói phần diện tích đất vượt quá 400m2.

           Trường hợp chuyển nhượng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai nên chỉ cần căn cứ vào Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là có thể xin cấp GCN QSD đất mà không phải tiến hành chủ tục tách thửa đất (nếu chủ cũ cũng chưa có GCN QSD đất).

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 10:25:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Việc giải quyết tranh chấp, khiếu kiện thì phải dựa vào chứng cứ mà các bên cung cấp hoặc chứng cứ mà các cơ quan có thẩm quyền giải quyết thu thập được trong quá trình giải quyết. Nếu không có chứng cứ "tình ngay lý gian" thì khó mà đòi lại được công bằng...

           Nếu nhà đất đó là tài sản chung vợ chồng cô chú bạn thì chỉ cần cô chú bạn ký hợp đồng tặng cho, chuyển nhượng là được. Nếu nhà đất đó là tài sản chung của hộ gia đình (được chính quyền giao cho hộ gia đình, được Nhà nước công nhận cho hộ gia đình....) thì mới cần phải có chữ ký của các con khi bán nhà đất.

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 09:29:50 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trước tiên phải căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất và các giấy tờ về quyền sử dụng đất của người sử dụng đất. Bạn chỉ mô tả hiện trạng mà không có thông tin về hồ sơ địa chính và quy hoạch thì luật sư không thể trả lời cụ thể cho bạn được.

               Việc công nhận là đất ở, bồi thường diện tích bao nhiêu m2 đất ở phụ thuộc vào các giấy tờ, tài liệu chứng minh thời điểm sử dụng đất và quy hoạch sử dụng đất. Do vậy, bạn cần xin trích lục bản đồ thửa đất của gia đình bạn thì sẽ xác định được nguồn gốc đất, làm căn cứ tính bồi thường, hỗ trợ.

  • Xem thêm     

    19/08/2012, 09:21:26 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Nếu thửa đất đó có nguồn gốc là thừa kế thì phải có di chúc hợp pháp hoặc thỏa thuận của các đồng thừa kế khác thì gia đình bạn mới được cấp GCN QSD đất. Nếu có tranh chấp thì thửa đất đó sẽ không được cấp GCN QSD đất.

           Nếu thửa đất của gia đình bạn đã có 1 trong các loại giấy tờ theo khoản 1, 2, hoặc khoản 5, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 và các giấy tờ đó đã xác định rõ diện tích, ranh giới thửa đất, đến nay vẫn không có biến động thì sẽ được cấp GCN QSD đất căn cứ vào số liệu, diện tích trên các giấy tờ đó.

           Nếu thửa đất của gia đình bạn cấp không thuộc trường hợp trên mà theo trường hợp quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai, ranh gới thửa đất chưa được xác định thì phải đo lại thửa đất và các gia đình hàng xóm ký xác nhận ranh giới và không có tranh chấp thì gia đình bạn mới được cấp GCN QSD đất.

    Bạn tham khảo quy định pháp luật sau đây:Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02-8-2007 của Bộ Tài nguyên – Môi trường hướng dẫn việc xác lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính quy định: Ranh giới thửa đất được xác định khi đo vẽ bản đồ địa chính, cấp Giấy chứng nhận theo quy định như sau: Trường hợp thửa đất xin cấp Giấy chứng nhận có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai mà trong giấy tờ đó thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất (mô tả các mốc ranh giới hoặc ghi kích thước từng cạnh thửa) với các thửa đất liền kề và hiện trạng đường ranh giới của thửa đất không thay đổi so với giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có thì đường ranh giới thửa đất được xác định theo giấy tờ đó; trường hợp thửa đất xin cấp Giấy chứng nhận không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai hoặc có một trong các loại giấy tờ đó nhưng không thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất với các thửa đất liền kề hoặc hiện trạng đường ranh giới của thửa đất đã thay đổi so với đường ranh giới thể hiện trên giấy tờ đó thì việc xác định ranh giới thửa đất thực hiện như sau:

    - Đơn vị đo đạc lập bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính (gọi chung là đơn vị đo đạc) có trách nhiệm xem xét cụ thể về hiện trạng sử dụng đất, ý kiến của những người sử dụng đất liền kề để xác định và lập bản mô tả về ranh giới thửa đất; chuyển bản mô tả ranh giới thửa đất cho những người sử dụng đất có chung ranh giới thửa đất và người nhận bản mô tả có trách nhiệm ký xác nhận về việc đã nhận bản mô tả này;

    - Sau 10 ngày kể từ ngày nhận được bản mô tả, nếu người nhận bản mô tả không có đơn tranh chấp về ranh giới thửa đất thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đó;

    Các cơ quan có trách nhiệm lập hồ sơ địa chính và giải quyết thủ tục hành chính về cấp Giấy chứng nhận không được buộc người làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận lấy xác nhận của người sử dụng đất liền kề. Trường hợp người sử dụng thửa đất liền kề vắng mặt dài ngày thì đơn vị đo đạc có trách nhiệm chuyển bản mô tả ranh giới thửa đất đó cho UBND cấp xã để gửi cho người sử dụng đất liền kề; trường hợp đến khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất liên quan đến đường ranh giới đó mà chưa gửi được bản mô tả cho người sử dụng đất liền kề thì UBND cấp xã ghi xác nhận vào đơn xin cấp Giấy chứng nhận “Chưa gửi được bản mô tả thửa đất cho... (ghi tên và địa chỉ của người sử dụng đất liền kề vắng mặt)”. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm gửi thông báo ba lần trong thời gian không quá 10 ngày trên một trong các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương về việc xác định ranh giới chung của các thửa đất; chi phí cho việc thông báo được tính chung trong chi phí cấp Giấy chứng nhận và được lấy từ nguồn ngân sách. Sau 30 ngày kể từ ngày thông báo cuối cùng, nếu không có đơn tranh chấp của người sử dụng đất liền kề thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đó;

    Trường hợp đang có tranh chấp về ranh giới thửa đất thì Đơn vị đo đạc có trách nhiệm thông báo cho UBND cấp xã để giải quyết theo quy định của pháp luật đất đai và ranh giới thửa đất được đo đạc theo kết quả giải quyết tranh chấp đó.

    Trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng và đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp sử dụng đất thành 2 bản, một bản lưu hồ sơ đo đạc, một bản gửi UBND cấp xã để giải quyết.

  • Xem thêm     

    18/08/2012, 09:58:15 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Cô bạn có thể trình báo sự việc trên với công an để được can thiệp kịp thời. Việc chủ nợ ép gia đình cô bạn viết giấy nhận nợ khống và ép trả tiền như vậy có thể cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản hoặc cướp tài sản.

            Để giải quyết dứt điểm vụ việc đó thì phải để các cơ quan pháp luật (công an, tòa án) giải quyết thì cô chú bạn mới có thể sống yên ổn được.

  • Xem thêm     

    18/08/2012, 05:35:08 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Di chúc mà bạn nêu là di chúc có điều kiện: Người để lại di sản giao nghĩa vụ cho người hưởng di sản. Vậy nếu người được chỉ định hưởng di sản theo di chúc đáp ứng được các điều kiện theo nội dung di chúc (thực hiện các nghĩa vụ do người chết để lại) thì sẽ được hưởng di sản theo nội dung di chúc.

          Tuy nhiên, cũng cần lưu lý về hiệu lực của di chúc đó thì mới tính đến điều kiện hưởng di sản. Bạn tham khảo một số quy định sau đây của Bộ luật dân sự năm 2005:

     

    Ðiều 648. Quyền của người lập di chúc

     

    Người lập di chúc có các quyền sau đây:

     

    1. Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;

     

    2. Phân định phần di sản cho từng người thừa kế;

     

    3. Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng;

     

    4. Giao nghĩa vụ cho người thừa kế;

     

    5. Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.

    Ðiều 652. Di chúc hợp pháp

     

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

     

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

     

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

     

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

     

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

     

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.

     

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

     

     

    Ðiều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

     

    Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

     

    Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ luật này.

    Ðiều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

     

    1. Di chúc phải ghi rõ:

     

    a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

     

    b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

     

    c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

     

    d) Di sản để lại và nơi có di sản;

     

    đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

     

    2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

     

    Ðiều 667. Hiệu lực pháp luật của di chúc

     

    1. Di chúc có hiệu lực pháp luật từ thời điểm mở thừa kế.

     

    2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:

     

    a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

     

    b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

     

    Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.

     

    3. Di chúc không có hiệu lực pháp luật, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.

     

    4. Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực pháp luật.

     

    5. Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật.

  • Xem thêm     

    18/08/2012, 09:34:34 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào chị!

             Việc gia đình chị có được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư hay không và được bồi thường toàn bộ diện tích đất là đất ở hay chỉ bồi thường trong hạn mức phụ thuộc vào các giấy tờ về quyền sử dụng đất của gia đình bạn. Nếu bạn có văn bản, tài liệu chứng minh là thửa đất đó đã được khai phá, sử dụng ổn định, liên tục trước 18/12/1980 thì sẽ được bồi thường toàn bộ là đất ở... Chị cần xem lại hồ sơ địa chính xem trong hồ sơ thể hiện về nguồn gốc đất thế nào...

  • Xem thêm     

    18/08/2012, 08:12:12 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

             Nếu đến thời điểm trúng tuyển nghĩa vụ quân sự mà con bác vẫn chưa có giấy báo trúng tuyển của trường thì con bác không được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 09:55:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!    

       Trường hợp bạn hỏi được quy định tại Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02/8/2007 của Bộ Tài nguyên – Môi trường hướng dẫn việc xác lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính, cụ thể như sau:

       Ranh giới thửa đất được xác định khi đo vẽ bản đồ địa chính, cấp Giấy chứng nhận theo quy định như sau: Trường hợp thửa đất xin cấp Giấy chứng nhận có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai mà trong giấy tờ đó thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất (mô tả các mốc ranh giới hoặc ghi kích thước từng cạnh thửa) với các thửa đất liền kề và hiện trạng đường ranh giới của thửa đất không thay đổi so với giấy tờ về quyền sử dụng đất hiện có thì đường ranh giới thửa đất được xác định theo giấy tờ đó; trường hợp thửa đất xin cấp Giấy chứng nhận không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai hoặc có một trong các loại giấy tờ đó nhưng không thể hiện rõ đường ranh giới chung của thửa đất với các thửa đất liền kề hoặc hiện trạng đường ranh giới của thửa đất đã thay đổi so với đường ranh giới thể hiện trên giấy tờ đó thì việc xác định ranh giới thửa đất thực hiện như sau:

    - Đơn vị đo đạc lập bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính (gọi chung là đơn vị đo đạc) có trách nhiệm xem xét cụ thể về hiện trạng sử dụng đất, ý kiến của những người sử dụng đất liền kề để xác định và lập bản mô tả về ranh giới thửa đất; chuyển bản mô tả ranh giới thửa đất cho những người sử dụng đất có chung ranh giới thửa đất và người nhận bản mô tả có trách nhiệm ký xác nhận về việc đã nhận bản mô tả này;

    - Sau 10 ngày kể từ ngày nhận được bản mô tả, nếu người nhận bản mô tả không có đơn tranh chấp về ranh giới thửa đất thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đó;

    Các cơ quan có trách nhiệm lập hồ sơ địa chính và giải quyết thủ tục hành chính về cấp Giấy chứng nhận không được buộc người làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận lấy xác nhận của người sử dụng đất liền kề. Trường hợp người sử dụng thửa đất liền kề vắng mặt dài ngày thì đơn vị đo đạc có trách nhiệm chuyển bản mô tả ranh giới thửa đất đó cho UBND cấp xã để gửi cho người sử dụng đất liền kề; trường hợp đến khi làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với thửa đất liên quan đến đường ranh giới đó mà chưa gửi được bản mô tả cho người sử dụng đất liền kề thì UBND cấp xã ghi xác nhận vào đơn xin cấp Giấy chứng nhận “Chưa gửi được bản mô tả thửa đất cho... (ghi tên và địa chỉ của người sử dụng đất liền kề vắng mặt)”. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm gửi thông báo ba lần trong thời gian không quá 10 ngày trên một trong các phương tiện thông tin đại chúng của Trung ương hoặc địa phương về việc xác định ranh giới chung của các thửa đất; chi phí cho việc thông báo được tính chung trong chi phí cấp Giấy chứng nhận và được lấy từ nguồn ngân sách. Sau 30 ngày kể từ ngày thông báo cuối cùng, nếu không có đơn tranh chấp của người sử dụng đất liền kề thì ranh giới thửa đất được xác định theo bản mô tả đó;

    Trường hợp đang có tranh chấp về ranh giới thửa đất thì Đơn vị đo đạc có trách nhiệm thông báo cho UBND cấp xã để giải quyết theo quy định của pháp luật đất đai và ranh giới thửa đất được đo đạc theo kết quả giải quyết tranh chấp đó.

    Trường hợp tranh chấp chưa giải quyết xong trong thời gian đo đạc ở địa phương thì đo đạc theo ranh giới thực tế đang sử dụng và đơn vị đo đạc có trách nhiệm lập bản mô tả thực trạng phần đất đang tranh chấp sử dụng đất thành 2 bản, một bản lưu hồ sơ đo đạc, một bản gửi UBND cấp xã để giải quyết.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 08:48:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Vụ việc của bạn có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, có khởi tố hình sự hay không phụ thuộc vào quan điểm của Thủ trưởng cơ quan điều tra....

          Với những trường hợp như vậy, ở HN thì các Thủ trưởng thường yêu cầu các điều tra viên xác minh ở địa phương của người vay, nơi bố mẹ chồng, bố mẹ vợ, bố mẹ đẻ họ cư trú, nơi anh chị em ruột sinh sống. Nếu tất cả các nơi đó đều không có ai biết họ ở đâu thì mới khởi tố hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.