Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 08:38:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Vụ việc của bạn là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chứ không phải là tranh chấp đất đai nên Tòa án sẽ có thẩm quyền giải quyết chứ không phải là UBND. Trước khi Tòa án giải quyết thì gia đình bạn phải gửi đơn tới UBND xã để được hòa giải theo pháp luật. Nếu chỉ tranh chấp quyền sử dụng đất chứ không phải tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng thì mới căn cứ vào Điều 136 Luật đất đai năm 2003 để xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp.

          Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của luật đất đai, bộ luật dân sự và Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để giải quyết.

          Gia đình bạn có căn cứ để đòi lại được phần diện tích đất mà gia đình kia chưa thanh toán tiền hoặc được thanh toán tiền theo giá trị đất trên thị trường tại thời điểm xét xử đối với phần diện tích đất chưa trả tiền.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 08:24:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Vụ việc mà bạn nêu ở trên là tranh chấp dân sự và thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án hoặc UBND cấp huyện theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai.

           Để xác định chữ ký giả mạo thì phải tiến hành trưng cầu giám định chữ ký theo quy định pháp luật. Nếu chữ ký giả mạo thì Tòa án có thể tuyên bố hợp đồng, giao dịch đó là vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137 BLDS.

           UBND cấp xã, phường muốn cưỡng chế tháo dỡ công trình đó thì phải căn cứ vào hành vi vi phạm. Nếu diện tích đất đang tranh chấp đó có công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng thì UBND cấp xã mới có quyền ban hành quyết định đình chỉ thi công công trình vi phạm trật tự xây dựng và ra quyết định cưỡng chế tháo dỡ... theo quy định tại Nghị định 180/2007/NĐ-CP. Việc cưỡng chế hành chính là một biện pháp hành chính và phải thực hiện dựa trên căn cứ và thủ tục theo quy định pháp luật chứ không thể tùy tiện thực hiện được.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 02:03:48 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Tại Điểm đ, khoản 2, Điều 164 BLTTDS quy định: Đơn khởi kiện phải có một trong các nội dung chính sau đây "Tên, địa chỉ của người bị kiện". Do vậy, nếu bạn không biết địa chỉ hiện tại vợ bạn cư trú ở đâu thì đơn khởi kiện của bạn chưa hợp lệ và Tòa án sẽ không thụ lý vụ án.

            Đồng thời, khoản 1, Điều 35 BLTTDS năm 2004, sửa đổi năm 2011 cũng quy định: Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự, hôn nhân gia đình. Do vậy, nếu bạn không cung cấp được địa chỉ của vợ bạn cư trú, làm việc hiện nay thì chưa đủ căn cứ để xác định Tòa án nơi bạn đang gửi đơn có thẩm quyền giải quyết vụ án đó.

            Để được ly hôn bạn cần phải tìm hiểu thông tin về nơi cư trú, làm việc của vợ bạn để yêu cầu Tòa án nơi cư trú đó thụ lý giải quyết vụ việc ly hôn.

             Nếu bạn không thể tìm được vợ bạn thì có thể yêu cầu Tòa án nơi vợ bạn cư trú cuối cùng tuyên bố mất tích. Nếu Tòa án chấp nhận tuyên bố vợ bạn mất tích thì đồng thời sẽ cho bạn được ly hôn theo quy định tại khoản 2, Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 11:16:33 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Tòa án tính lãi suất đến thời điểm xét xử sơ thẩmn. Nếu bản án sơ thẩm bị hủy bỏ để xét xử lại thì lãi suất được tính lại cho đến thời điểm xử sơ thẩm lại... như vậy người chịu lãi suất sẽ bị thiệt hại rất nhiều.

            Nếu sau khi có bản án có hiệu lực (lần sau ) xác định mức lãi suất mà người nợ phải trả lớn hơn mức lãi suất từ bản án sơ thẩm lần đầu thì phần giá trị tăng lên là thiệt hại của người nợ. Nếu có căn cứ xác định việc hủy án sơ thẩm là do lỗi của Tòa án thì các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án phải bồi thường thiệt hại theo luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước. Bạn có thể tham khảo thêm các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường Nhà nước năm 2009 để có cách đòi quyền lợi của mình.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 10:30:52 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Trường hợp công ty B giải quyết chế độ, quyền lợi của A như vậy là không đúng pháp luật. Anh A có thể lựa chọn cho mình một nơi làm việc khác, hoặc khởi kiện đến Tòa án để được giải quyết. Tuy nhiên, để khởi kiện thì anh A phải chuẩn bị Hợp đồng và các tài liệu, chứng cứ làm căn cứ khởi kiện thì Tòa án mới thụ lý, giải quyết.

             Bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 27 và Điều 32 của Bộ luật Lao động 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 10:21:25 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Việc mua bán tài sản ảo đang thiếu các quy định pháp luật điều chỉnh nên việc tranh chấp rất phức tạp. Vụ việc của bạn rất khó để tòa án có thể thụ lý, do vậy bạn có thể lựa chọn cho mình cách giải quyết khác.

             Bạn có thể tham khảo thêm một số bài viết về tài sản ảo theo Pháp luật Việt Nam hiện nay trên các trang mạng.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 10:16:32 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu gia đình bạn muốn được cấp GCN QSD đất thì phải chấp nhận mốc giới hiện tại (ký kết với các hộ liền kề là không có tranh chấp về mốc giới hiện trạng sử dụng đất là không tranh chấp, không lấn chiếm....). Nếu có tranh chấp về mốc giới giữa hai gia đình mà chưa được giải quyết dứt điểm thì thửa đất đó sẽ không được cấp GCN QSD đất.

           Nếu UBND quận cấp GCN QSD đất cho gia đình bạn không dựa vào hiện trạng sử dụng đất mà chỉ căn cứ trên hồ sơ địa chính (Bản đồ) thì sau khi được cấp GCN QSD đất thì gia đình bạn có thể khởi kiện để đòi lại phần diện tích đất lấn chiếm đó.

          Để giải quyết dứt điểm, triệt để phần lấn chiếm đó thì gia đình bạn có thể thương lượng với gia đình nhà chú bạn. Nếu không thương lượng được thì có thể yêu cầu UBND phường hòa giải và yêu cầu Tòa án, hoặc UBND quận giải quyết vụ việc tranh chấp đó theo pháp luật. Để có căn cứ cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc thì bạn có thể xin cấp trích lục bản đồ, trích sao hồ sơ địa chính tại UBND phường hoặc Phòng TN&MT.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 10:01:36 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Những thừa kế của chị bạn có thể tự mình kê khai hoặc ủy quyền cho người khác kê khai xin cấp GCN QSD đất theo quy định pháp luật. Bạn có thể liên hệ với UBND cấp xã hoặc Phòng TN&MT cấp huyện để xin các mẫu đơn và được hướng dẫn thủ tục cụ thể.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 09:57:03 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Trong trường hợp này chủ sử dụng đất có thể trình báo sự việc đến Thanh tra Tài nguyên và Môi trường để được giải quyết hoặc yêu cầu UBND cấp huyện xem xét lại GCN QSD đất đã cấp.

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 09:33:06 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được Bộ luật tố tụng hình sự sửa đổi năm 2011 quy định như sau:

    “Điều 35. Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ

    1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    b) Các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;

    c) Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản.

    2. Thẩm quyền giải quyết việc dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định như sau:

    a) Tòa án nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;

    b) Tòa án nơi người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết có nơi cư trú cuối cùng có thẩm quyền giải quyết yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó, yêu cầu tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết;

    c) Tòa án đã ra quyết định tuyên bố một người mất tích hoặc là đã chết có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố mất tích hoặc là đã chết;

    d) Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành án là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành án có trụ sở, nếu người phải thi hành án là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài;

    đ) Tòa án nơi người gửi đơn cư trú, làm việc, nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn có trụ sở, nếu người gửi đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam;

    e) Tòa án nơi người phải thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người phải thi hành là cá nhân hoặc nơi người phải thi hành có trụ sở, nếu người phải thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài;

    g) Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật;

    h) Tòa án nơi một trong các bên thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn;

    i) Tòa án nơi một trong các bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn;

    k) Tòa án nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn;

    l) Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoặc con nuôi cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi;

    m) Tòa án nơi Phòng công chứng, Văn phòng công chứng đã thực hiện việc công chứng có trụ sở có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu;

    n) Tòa án nơi Cơ quan thi hành án có thẩm quyền thi hành án có trụ sở hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành án có thẩm quyền giải quyết yêu cầu xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản, phân chia tài sản chung để thi hành án theo quy định của pháp luật;

    o) Thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ giải quyết các yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh chấp được thực hiện theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.”

    11. Điều 36 được sửa đổi, bổ sung như sau:

    “Điều 36. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu

    1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:

    a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;

    b) Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;

    c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;

    d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;

    đ) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;

    e) Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;

    g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;

    h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;

    i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.

    2. Người yêu cầu có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong các trường hợp sau đây:

    a) Đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6 và 7 Điều 26 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi có tài sản của người bị yêu cầu giải quyết;

    b) Đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi cư trú của một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết;

    c) Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi người con cư trú giải quyết.”

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 09:28:28 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu có căn cứ xác định A hành vi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể xử lý hình sự với A về tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

            Nếu muốn khởi kiện dân sự để đòi tiền A thì B phải biết được nơi cư trú hiện tại của A (A đang trốn ở đâu).

           Quan điểm của nhà làm luật Việt Nam hiện nay là nếu tìm được người vay, biết được địa chỉ của người vay thì là quan hệ dân sự và có thể khởi kiện dân sự ra Tòa án để đòi tiền. Còn nếu người vay đã bỏ trốn, không thể tìm được họ để kiện dân sự thì đó là phạm pháp và có thể yêu cầu khởi tố người vay để xử lý hình sự.

            Theo quy định của pháp luật VN hiện nay, với số tiền chiếm đoạt từ 2 triệu đồng là có thể bị xử lý hình sự về một số tội về chiếm đoạt tài sản rồi (tội lạm dụng thì số tiền chiếm đoạt phải từ 4 trđ trở lên)...

  • Xem thêm     

    17/08/2012, 09:20:55 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

            1. Theo thông tin bác nêu thì thửa đất đó có nguồn gốc là bố mẹ bác mua của người khác nên có thể xác định nhà đất đó là tài sản chung của bố mẹ bác (trừ trường hợp việc mua bán đó là trái pháp luật...);

            2. Khi xây nhà thì bác được mẹ bác và các anh, chị em trong nhà ủy quyền để xây nhà chứng tỏ bác đã thừa nhận thửa đất đó là của gia đình bác chứ không phải là của cá nhân bác. Nếu số tiền xây nhà là của bác bỏ ra thì bác được sở hữu giá trị ngôi nhà đó;

          3. GCN QSD đất và QSH nhà ở đứng tên bác với tư cách là đại diện Hộ gia đình chứng tỏ Nhà nước đang công nhận nhà đất đó là tài sản chung của Hộ gia đình (những người có tên trong hộ khẩu thời điểm cấp GCN hoặc thời kỳ hình thành Bất động sản...). Để làm rõ việc cấp GCN QSD đất có đúng hay không cũng cần xem lại hồ sơ kê khai xin cấp GCN QSD đất và căn cứ để cơ quan Nhà nước cấp GCN QSD đất đó;

          4. Nếu việc cấp GCN QSD đất là đúng pháp luật thì nhà đất đó là tài sản chung của hộ gia đình bác. Các thành viên trong hộ có quyền ngang nhau đối với nhà đất đó (giá trị chia đều). Nay nếu bác bán nhà thì bắt buộc phải có sự đồng ý của các thành viên trong gia đình. Nếu các con cái của bác có công sức trong việc tạo lập và duy trì tài sản thì mới có quyền lợi từ nhà đất đó.

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 10:34:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu là thửa đất thổ cư thì việc tách thửa đất trước khi bị thu hồi mới ảnh hưởng (có lợi cho người sử dụng đất) đến chính sách tái định cư.

           Với đất nông nghiệp thì việc tách thửa đất trước khi thu hồi không làm ảnh hưởng đến kết quả bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định pháp luật. Do vậy, gia đình bạn không cần tách thửa đất mà chỉ cần tăng số lượng cây cối trên đất thì sẽ được tăng giá trị bồi thường....

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 10:15:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Đối với việc học tập tiếp theo của bạn, bạn có thể liên hệ trực tiếp với nhà trường để có câu trả lời cụ thể. Việc xóa án tích được Bộ luật hình sự quy định như sau:

    "Điều 63. Xoá án tích

    Người bị kết án được xoá án tích theo quy định tại các điều từ Điều 64 đến Điều 67 của Bộ luật này.

    Người được xoá án tích coi như chưa bị kết án và được Toà án cấp giấy chứng nhận.

    Điều 64. Đương nhiên được xoá án tích

    Những người sau đây đương nhiên được xoá án tích:

    1. Người được miễn hình phạt.

    2. Người bị kết án không phải về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, nếu từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án người đó không phạm tội mới trong thời hạn sau đây:

    a) Một năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù nhưng được hưởng án treo;

    b) Ba năm trong trong trường hợp hình phạt là tù đến ba năm;

    c) Năm năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên ba năm đến mười lăm năm;

    d) Bảy năm trong trường hợp hình phạt là tù từ trên mười lăm năm.

    Điều 65. Xoá án tích theo quyết định của Toà án

    1. Toà án quyết định việc xoá án tích đối với những người đã bị kết án về các tội quy định tại Chương XI và Chương XXIV của Bộ luật này, căn cứ vào tính chất của tội phạm đã được thực hiện, nhân thân, thái độ chấp hành pháp luật và thái độ lao động của người bị kết án trong các trường hợp sau đây:

    a) Đã bị phạt tù đến ba năm mà không phạm tội mới trong thời hạn ba năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;

    b) Đã bị phạt tù từ trên ba năm đến mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn bảy năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án;

    c) Đã bị phạt tù trên mười lăm năm mà không phạm tội mới trong thời hạn mười năm, kể từ khi chấp hành xong bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án.

    2. Người bị Tòa án bác đơn xin xóa án tích lần đầu phải chờ một năm sau mới được xin xóa án tích; nếu bị bác đơn lần thứ hai trở đi thì phải sau hai năm mới được xin xóa án tích.

    Điều 66. Xoá án tích trong trường hợp đặc biệt

    Trong trường hợp người bị kết án có những biểu hiện tiến bộ rõ rệt và đã lập công, được cơ quan, tổ chức nơi người đó công tác hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú đề nghị, thì có thể được Toà án xoá án tích nếu người đó đã bảo đảm được ít nhất một phần ba thời hạn quy định.

    Điều 67. Cách tính thời hạn để xoá án tích

    1. Thời hạn để xoá án tích quy định tại Điều 64 và Điều 65 của Bộ luật này căn cứ vào hình phạt chính đã tuyên.

    2. Nếu chưa được xoá án tích mà phạm tội mới, thì thời hạn để xoá án tích cũ tính từ ngày chấp hành xong bản án mới.

    3. Việc chấp hành xong bản án bao gồm việc chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của bản án.

    4. Người được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại cũng được coi như đã chấp hành xong hình phạt."

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 10:10:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Việc cấp GCN QSD đất:

    Điều 52 Luật đất đai năm 2003 quy định về thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như sau:

    "1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở.

    3. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều này được uỷ quyền cho cơ quan quản lý đất đai cùng cấp.

    Chính phủ quy định điều kiện được ủy quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất."

    Do vậy, bạn có thể liên hệ với UBND cấp huyện hoặc UBND cấp xã để được trả lời về việc cấp GCN QSD đất của gia đình bạn.

    2. Việc hòa giải giải quyết tranh chấp đất đai:

    Luật đất đai năm 2003 quy định về hòa giải, giải quyết tranh chấp đất đai như sau:

    "Điều 135. Hoà giải tranh chấp đất đai

    1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở.

    2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.         

    Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.

    Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.

    Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.

     

    Điều 136. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai

    Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:

    1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;

    2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:

    a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; Nếu không đồng ý với quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì một trong các bên có thể khởi kiện để Tòa án giải quyết;

    b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; Nếu không đồng ý với quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường thì một trong các bên có thể khởi kiện để Tòa án giải quyết."

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 09:58:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu có căn cứ xác định người đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn thì mới có thể khởi tố người vay về tội lạm dụng tín nhiệm, chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Thời điểm dễ khởi tố nhất là thời điểm công an tìm được người đó sau một thời gian bỏ trốn. Nay người đó đã trở về và nhận nợ thì rất khó để khởi tố hình sự.

    Nếu cơ quan điều tra chứng minh được lãi suất mà bạn cho vay vượt quá 10 lần mức lãi suất cao nhất do Nhà nước quy định tại thời điểm cho vay và với tính chất chuyên bóc lột thì mới có thể bị xử lý hình sự. Về nguyên tắc thì cho vay nặng lãi nếu không đến mức xử lý hình sự thì bị xử phạt hành chính nhưng thực tế hành vi cho vay nợ dân sự cá nhân thì ít khi bị xử phạt hành chính về hành vi cho vay nặng lãi.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 09:43:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Trong vụ việc trên, cả hai bên đều có lỗi vì hiểu lầm và thiếu kiềm chế. Hành vi ẩu đả gây thương tích cho người khác thì bên nào bị thương, thiệt hại thì bên kia phải bồi thường. Việc bồi thường đó cũng phụ thuộc vào mức độ lỗi của các bên. Trong vụ việc trên, tốt nhất là nên hòa giải dân sự giữa hai bên.

            Nếu không hòa giải được khiến cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì mọi việc sẽ rắc rối hơn, thậm chí những người tham gia vụ đó có thể bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng và có thể bị xử lý hình sự theo Điều 104 BLHS (nếu xác định được tỷ lệ thương tích và chứng minh được người gây thương tích có sử dụng hung khí nguy hiểm, có tổ chức hoặc gây cố tật cho nạn nhân...)

  • Xem thêm     

    16/08/2012, 09:42:43 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Trường hợp của bạn, hợp đồng được xác lập sau ngày 01/7/2004 nên không thể áp dụng khoản 2, Điều 50 Luật đất đai để xin cấp GCN QSD đất dựa trên Hợp đồng chuyển nhượng đã được hai bên ký kết.

            Ðiều 692 BLDS năm 2005 quy định:

    "Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

    Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.".

          Tại khoản 4, Điều 146, Nghị định số181/2004/NĐ-CP hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003 quy định:

    “ Hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê, thuê lại quyền sử dụng đất; hợp đồng hoặc văn bản tặng cho quyền sử dụng đất; hợp đồng thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất.".

            Khoản 19, Điều 4 Luật đất đai năm 2003 quy định:

    "Đăng ký quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất".

            Như vậy, căn cứ vào các quy định pháp luật trên, đối chiếu với các thông tin mà bạn cung cấp thì Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất năm 2007 của gia đình bạn chưa đăng ký sang tên nên chưa có hiệu lực pháp luật.

            Nay bạn muốn đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích đất chuyển nhượng thì phải yêu cầu các thừa kế của bên bán khai nhận di sản thừa kế và ký lại hợp đồng để chuyển nhượng cho bạn thì thủ tục chuyển nhượng mới hoàn tất.

  • Xem thêm     

    15/08/2012, 10:59:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Nếu nhà đất là tài sản của ba mẹ bạn thì ba mẹ bạn có toàn quyền định đoạt (tặng cho, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh....) mà không cần phải có ý kiến của bạn. Theo đó di chúc của ba bạn không cần phải có ý kiến của bạn. Nếu ba mẹ bạn qua đời mà không để lại di chúc thì nhà đất đó sẽ thuộc về ông bà bạn và tất cả các anh, chị, em bạn.

             Bạn có thể tham khảo các quy định sau đây của bộ luật dân sự năm 2005:

    Ðiều 652. Di chúc hợp pháp

     

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

     

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

     

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

     

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

     

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

     

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.

     

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

     

    Ðiều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

     

    Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

     

    1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

     

    2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

     

    3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

     

    Ðiều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

     

    Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

     

    Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ luật này.

     

    Ðiều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

     

    Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

     

    Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 và Ðiều 654 của Bộ luật này.

     

    Ðiều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

     

    Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

     

    Ðiều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

     

    Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

     

    1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;

     

    2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

     

    Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.

     

  • Xem thêm     

    15/08/2012, 10:51:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Không có quy định pháp luật nào hạn chế những người cùng Sổ hộ khẩu không được nhận tặng cho quyền sử dụng đất. Do vậy, gia đình bạn có thể khiếu nại hành vi không thực hiện thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất nêu trên theo quy định pháp luật.

            Trong tình huống trên, ngoài việc lập hợp đồng tặng cho QSD đất để đứng tên 1 người, Hộ gia đình cũng có thể lập văn bản thỏa thuận về tài sản của hộ gia đình để chuyển quyền sử dụng đất cho 1 người được toàn quyền sử dụng, định đoạt theo pháp luật (giống trường hợp chia tài sản chung vợ chồng)