Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    28/07/2012, 07:19:21 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 140 BLHS quy định:

            "Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.".

              Như vậy, nếu có căn cứ xác định người đó vay tiền của bạn rồi bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì bạn có thể trình báo sự việc với Công an cấp huyện để được xem xét xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS nêu trên. Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì bạn vẫn có thể khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự tại Tòa án nơi người đó cư trú để đòi tiền.

  • Xem thêm     

    28/07/2012, 07:12:10 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu bạn không thể thỏa thuận được với Công ty đó thì có thể khởi kiện đến Tòa án nơi công ty có trụ sở chính để được xem xét giải quyết. Bạn cần nộp kèm theo đơn khởi kiện là Hợp đồng, CMND, Hộ khẩu của bạn và giấy tờ chứng minh trụ sở của Công ty.

            Theo quy định tại Điều 179 BLTTDS thì thời hạn giải quyết vụ án dân sự ở Tòa án cấp sơ thẩm là 4-6 tháng.

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 05:06:22 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Bạn cần đến công ty xuất khẩu lao động để xác minh thông tin về địa chỉ của vợ bạn tại Malaixia và cung cấp cho Tòa án. Nếu có căn cứ cho rằng bị đơn cố tình giấu diếm địa chỉ thì bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn vắng mặt.

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 05:04:10 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Thời hiệu khởi kiện tranh chấp vụ án dân sự là 2 năm kể từ ngày quyền và lợi ích bị xâm hại. Nay chưa hết 2 năm thì bạn vẫn có thể khởi kiện. Việc tranh chấp về hụi thường khó khăn về việc thu thập và cung cấp chứng cứ. Nếu không đủ chứng cứ thì Tòa án sẽ không có căn cứ để xem xét, đồng thời nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các bên đương sự. Nếu đương sự không thể cung cấp được chứng cứ thì cũng có thể yêu cầu Tòa án thu thập.

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 04:57:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Để có thông tin về thửa đất và nguồn gốc thửa đất tranh chấp thì bạn có thể tiến hành thủ tục xin cấp Trích lục bản đồ hoặc trích sao hồ sơ địa chính tại Văn phòng đăng ký QSD đất hoặc Sở TN&MT.

           Bạn có thể tham khảo quy định tại : Thông tư số 09/2007/TT-BTNMT ngày 02 tháng 8 năm 2007 hướng dẫn việc lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chínhThông tư liên tịch số 05/2010/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày 15/03/2010 .

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 04:48:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu diện tích đất của bạn không đủ điều kiện tách thửa theo quy định của địa phương về diện tích, kích thước tách thửa đất thì bạn có thể lập văn bản thỏa thuận tài sản chung với người mua rồi đăng ký đứng tên đồng sở hữu đối với thửa đất đó.

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 04:42:17 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

            Nếu mẹ Thuận là thừa kế duy nhất của Thuận theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS. Sau khi Thuận qua đời thì mẹ Thuận đã thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế rồi bán, đổi, tặng cho... nhà đất đó cho bác thì bác được sở hữu nhà đất đó. Nếu mẹ Thuận lập di chúc và di chúc hợp pháp theo quy định tại Điều 652 BLDS thì bác được thừa kế theo di chúc đối với nhà đất đó sau khi mẹ của Thuận qua đời.

           Nếu Di chúc của mẹ Thuận không hợp pháp hoặc mẹ Thuận đã thay đổi nội dung di chúc, không để lại di sản đó cho bác nữa thì bác sẽ không được hưởng thừa kế.

           Nếu trong quá trình bác sinh sống tại ngôi nhà đó mà có đóng góp làm tăng giá trị tài sản hoặc có công duy trì tu tạo di sản thì được chia, trích một phần công sức.

          Nếu bác là người già yếu, cô đơn, không có người chăm sóc, nuôi dưỡng và không thể tự chăm sóc bản thân thì con cháu của bác có thể đưa bác vào viện dưỡng lão, các cơ sở chăm sóc người cao tuổi để được chăm sóc, nuôi dưỡng.

  • Xem thêm     

    25/07/2012, 02:56:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Khi Tòa án đã giải quyết vụ án dân sự và có bản án có hiệu lực pháp luật thì người thắng kiện (người được thi hành án) có quyền gửi đơn đến cơ quan thi hành án dân sự để được Cơ quan Thi hành án tiến hành thi hành bán án đó theo các quy định của Luật thi hành án.

            Nếu sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án xác định bên vay tiền phải trả nợ mà họ không còn tài sản thì phải chờ bao giờ họ có tài sản mới thi hành án được. Nếu họ có tài sản và không muốn trả nợ thì cơ quan thi hành án sẽ sẽ cưỡng chế thi hành án: kê biên, phát mại tài sản... để thu hồi nợ cho bên cho vay.

            Chỉ có thể xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 140 BLHS khi người vay tiền sử dụng tiền vay vào mục đích phi pháp dẫn đến mất khả năng thanh toán hoặc gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản.

  • Xem thêm     

    23/07/2012, 01:50:00 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 113 BLHS quy định;

    "Tội cưỡng dâm

    1. Người nào dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Nhiều người cưỡng dâm một người;

    b) Cưỡng dâm nhiều lần;

    c) Cưỡng dâm nhiều người;

    d) Có tính chất loạn luân;

    đ) Làm nạn nhân có thai;

    e) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    g) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười tám năm:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội;

    c) Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

    4. Cưỡng dâm người chưa thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này, thì bị xử phạt theo mức hình phạt quy định tại các khoản đó.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

    Sự việc bạn nêu là việc đáng trách. Đáng trách cho sự tha hóa về đạo đức của người "thày" và trách cho sự nhẹ dạ của bạn. Một thày giáo của trường cao đẳng  thì làm gì có quyền to đến mức muốn cho sinh viên ra trường thì được ra trường. Với tình huống như vậy, nếu nạn nhân có ý thức bảo vệ mình thì người "thày" đó đã vào tù ngay từ thời điểm sự việc xảy ra.

    Theo thông tin bạn nêu thì bạn đã bị cưỡng dâm (miễn cưỡng giao cấu) khi bạn còn là sinh viên. Sự việc diễn ra đã lâu, đến nay bạn lại đang chung sống như vợ chồng với người khác... do vậy rất khó để có căn cứ để tố cáo kẻ đã hại đời bạn. Nếu bạn có tin nhắn, hình ảnh, video... về sự việc đó hoặc đối tượng đó thừa nhận sự việc thì mới có căn cứ để xử lý.

  • Xem thêm     

    23/07/2012, 12:50:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    Điều 676 BLDS quy định về hàng thừa kế như sau:

    "Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

    Như vậy, nếu má của Thuận là thừa kế duy nhất của Thuận mới có quyền lập di chúc để định đoạt toàn bộ di sản. Di chúc của má thuận chỉ có hợp pháp nếu tuân thủ điều kiện quy định tại Điều 652, Điều 653 BLDS.

    Nếu di chúc của má Thuận không hợp pháp thì bác không được hưởng di sản. Hơn nữa, theo quy định của pháp luật thì Di chúc chỉ được thực thi sau khi mẹ của Thuận qua đời. Năm nay bác đã 95 tuổi... việc chờ đợi mẹ của Thuận qua đời để được hưởng di sản không dễ dàng gì.

    Bác chỉ có thể được hưởng một phần giá trị căn nhà đó nếu có công sức duy trì, tu tạo tài sản. Nếu bác già yếu, thì các con cháu cũng có thể đưa bác đến viện dưỡng lão để tiện cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng.

  • Xem thêm     

    22/07/2012, 06:52:43 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Nếu các bên đã có hợp đồng thỏa thuận cụ thể mà Bên mua vi phạm hợp đồng không nhận sản phẩm thì công tu bạn có thể khởi kiện để yêu cầu bồi thường. Tuy nhiên, vụ việc của bạn giá trị tài sản không lớn nên tốt nhất là thỏa thuận. Nếu ra tòa thì sẽ mất nhiều thời gian, chi phí và công sức.

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 11:26:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 135. Tội cưỡng đoạt tài sản

    1. Người nào đe doạ sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần người khác nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.".

    Như vậy, nếu bạn cùng có mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách đe dọa sẽ dùng vũ lực hoặc có thủ đoạn khác uy hiếp tinh thần của người khác để lấy tiền thì bạn phạm tội theo quy định tại Điều luật nêu trên. Bạn chỉ còn cách thành khẩn khai báo để mong được hưởng khoan hồng. Nếu bạn không có mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác. Hành vi đe dọa của người đi cùng bạn chưa đến mức buộc nạn nhân phải giao tiền thì chưa đủ căn cứ kết tội... nếu bạn có luật sư tham gia vụ án để bảo vệ bạn thì cơ hội giảm hình phạt và hưởng án treo của bạn sẽ cao hơn.

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 11:12:49 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Trước tiên bạn có thể báo công an để xem xét dấu hiệu tội phạm. Nếu người đó bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

             Nếu người đó không bỏ trốn thì bạn có thể khởi kiện tranh chấp dân sự để Tòa án giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 11:04:15 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                Với hoàn cảnh như vậy thì bạn sẽ "khó" ly hôn rồi. Bạn cần tiến hành thủ tục tuyên bố mất tích theo quy định của pháp luật. Sau khi Tòa án tuyên bố vợ bạn mất tích thì sẽ cho bạn được đơn phương ly hôn.

               Nếu trong hai năm liền trở lên (theo Điều 78 Bộ Luật Dân sự năm 2005) mà không có tin tức gì về người mất tích, mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo trên các phương tiện truyền thông, niêm yết nơi cư trú theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự, nhưng vẫn không có tin tức gì về người mất tích còn sống hay chết, thì theo yêu cầu của người có quyền lợi liên quan, tòa án có thể tuyên cáo người đó mất tích.

               Theo quy định của Bộ Luật dân sự và Bộ Luật tố tụng dân sự: Khi người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố một người mất tích thì người đó phải nộp đơn yêu cầu Toà án giải quyết với nội dung như sau:

             Ngày, tháng, năm, viết đơn; tên, địa chỉ của người yêu cầu, những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết; lý do, mục đích, căn cứ của việc yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự đó; tên địa chỉ những người có lên quan; các thông tin khác mà người yêu cầu thấy cần thiết cần cung cấp; kèm theo là các tài liệu, chứng cứ để chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

             Kèm theo đơn là các chứng cứ chứng minh người bị yêu cầu tuyên bố là mất tích đã biệt tích hai năm liền trở lên mà không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết và chứng minh việc người yêu cầu đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo tìm kiếm.

            Toà án sẽ xem xét đơn và thụ lý vụ án; trong thời hạn là 20 ngày, kể từ ngày thụ lý, Toà án sẽ ra quyết định thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích trên các phương tiện thông tin đại chúng (thông báo trong 4 tháng kể từ ngày thông báo đầu tiên).

             Sau 15 ngày kể từ ngày hết hạn công bố thông báo Tào án sẽ mở phiên họp xét yêu cầu tuyên bố một người mất tích.

             Toà án có thể chấp nhận đơn hoặc bác đơn yêu cầu.

             Nếu Toà án chấp nhận đơn thì Toà án ra quyết định tuyên bố mất tích, trường hợp có yêu cầu Toà án áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích đó và được chấp nhận thì trong quyết định của Toà án còn phải quyết định áp dụng biện pháp quản lý tài sản của người đó theo quy định của Bộ Luật dân sự.

            Trong trường hợp sau này, nếu người bị tuyên bố mất tích trở về hoặc có tin tức người đó còn sống thì người đó hoặc người có đơn yêu cầu tuyên bố mất tích trước đây lại phải có đơn đề nghị Toà án yêu cầu huỷ bỏ quyết định tuyên bố người mất tích.

            Toà án xem xét thủ tục này cũng giống như thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích.

                 Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:

    "Căn cứ cho ly hôn

    1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu  xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.".

                 Như vậy, nếu vợ bạn không đồng ý ly hôn hoặc bạn không tìm được địa chỉ của vợ bạn thì phải sau hơn 2 năm nữa bạn mới có thể ly hôn được.

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 10:50:38 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Nếu năm 1988 ông bạn đã thực hiện thủ tục tặng cho QSD đất cho ba bạn và thủ tục tặng cho đã hoàn tất thì thửa đất đó thuộc quyền sử dụng hợp pháp của Ba bạn. Nếu thủ tục tặng cho chưa hợp pháp, trên hồ sơ địa chính vẫn đứng tên ông bạn thì vẫn là đất của ông bạn.

             zxViệc bác Hai bạn làm giả ủy quyền để nhận tiền bồi thường là không đúng pháp luật. Tuy nhiên, trong tình huống đó ít khi bị xử lý về hành vi chiếm đoạt tài sản. Nếu có tranh chấp và tòa án tuyên bố thửa đất đó thuộc về ông bạn hoặc Ba bạn thì bác Hai phải trả lại số tiền đó.

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 08:47:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Hành vi mượn xe máy rồi mang đi cầm đồ có thể phạm vào tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS (nếu mục đích chiếm đoạt tài sản xuất hiện trước khi nhận được xe); Nếu sau khi mượn xe mới nảy sinh ý định chiếm đoạt thì phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Bạn có thể trình báo sự việc trên với công an cấp huyện nơi sự việc xảy ra để được giải quyết. Bạn tham khảo quy định sau đây của BLHS:

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn  triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.".

  • Xem thêm     

    21/07/2012, 08:33:59 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Với thương tích như vậy mà bạn bồi thường 12 triệu là hợp lý rồi. Nếu gia đình nạn nhân không đồng ý thì có thể khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây nên. Mức bồi thường sẽ căn cứ vào mức độ thiệt hại cụ thể. Bạn có lỗi trong tình huống tai nạn trên nên sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính.

             Bạn có thể tham khảo quy định tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của HĐTP TAND tối cao sau đây:

    "Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường."

  • Xem thêm     

    20/07/2012, 03:57:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu là đất khai hoang thì trong hồ sơ địa chính phải không có tên ai hoặc chỉ có tên bạn. Nếu trong sổ mục kê, dã ngoại.. của chính quyền địa phương đến năm 1995 vẫn ghi là đất do UBND xã quản lý thì không gọi là đất khai hoang.

            Tuy nhiên, nếu thực tế gia đình bạn sử dụng ổn định, liên tục, không có tranh chấp từ trước ngày 15/10/1993 thì gia đình bạn có thể nộp hồ sơ xin cấp GCN QSD đất theo quy định tại Điều 14, hoặc 15, 16 Nghị định số 88/2009/NĐ-CP về cấp GCN QSD đất, SQSHNƠ và các tài sản gắn liền với đất ở để được xem xét giải quyết.  Nếu gia đình bạn đã thực hiện đúng thủ tục xin cấp GCN QSD đất mà UBND phường không xem xét hoặc không xét duyệt thì gia đình bạn có quyền khiếu kiện theo pháo luật.

  • Xem thêm     

    19/07/2012, 09:35:16 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


     Chào bạn!

    1. Thời hạn kiểm tra, xác minh nguồn tin theo quy định tại Điều 103 BLTTHS là 20 ngày, vụ việc phức tạp có thể kéo dài hơn nhưng không quá 2 tháng;

    2. Thời hạn điều tra được BLTTHS quy định: Tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 04 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội ít nghiêm trọng là 03 tháng. Tổng thời hạn để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 08 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội nghiêm trọng là 06 tháng.

    Tổng thời hạn để điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 12 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án về tội rất nghiêm trọng là 09 tháng. Tổng thời hạn điều tra một vụ án về tội đặc biệt nghiêm trọng là 20 tháng, và tổng thời hạn tạm giam để điều tra vụ án này là 16 tháng.
  • Xem thêm     

    19/07/2012, 09:27:39 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Khi phát hiện công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng đô thị, Thanh tra xây dựng sẽ lập BIÊN BẢN NGỪNG THI CÔNG để ghi nhận sự việc và yêu cầu ngừng thi công công trình. Nếu chủ đầu tư không ngừng thi công thì trong thời hạn 24h, Chủ tịch UBND cấp xã sẽ ra Quyết định ĐÌNH CHỈ CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG VI PHẠM TRẬT TỰ XÂY DỰNG và buộc tháo dỡ công trình vi phạm. Nếu trong thời hạn 24h mà chủ đầu tư không tháo dỡ công trình vi phạm thì Chủ tịch UBND xã, phường sẽ ban hành QUYẾT ĐỊNH CƯỠNG CHẾ THÁO DỠ CÔNG TRÌNH VI PHẠM.

            Bạn tham khảo quy định sau đây tại Nghị định số 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Luật xây dựng về xử lý công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng như sau:

    Điều 4. Biện pháp xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị

    Hành vi vi phạm trật tự xây dựng đô thị phải bị xử lý theo một hoặc các hình thức sau đây:

    1. Ngừng thi công xây dựng công trình.

    2. Đình chỉ thi công xây dựng công trình, áp dụng các biện pháp ngừng cung cấp điện, nước: thông báo cho cơ quan có thẩm quyền không cung cấp các dịch vụ điện nước, các hoạt động kinh doanh và các dịch vụ khác đối với công trình xây dựng vi phạm.

    3. Cưỡng chế phá dỡ công trình vi phạm.

    4. Buộc bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra.

    5. Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng. Trường hợp vi phạm nghiêm trọng có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật hình sự.

    6. Ngoài các hình thức xử lý quy định tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều này thì đối với chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng, nhà thầu tư vấn thiết kế, nhà thầu tư vấn giám sát thi công xây dựng công trình có hành vi vi phạm trật tự xây dựng đô thị còn bị nêu tên trên website của Bộ Xây dựng và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.

    Điều 12. Xử lý công trình xây dựng không có Giấy phép xây dựng

    1. Những công trình xây dựng theo quy định phải có Giấy phép xây dựng, khi xây dựng không có Giấy phép xây dựng, trừ những trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này phải bị xử lý như sau:

    a) Lập  biên bản ngừng thi công xây dựng, yêu cầu chủ đầu tư tự phá dỡ công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng đô thị;

    b) Trường hợp chủ đầu tư không ngừng thi công xây dựng phải bị đình chỉ thi công xây dựng, buộc phá dỡ công trình xây dựng vi phạm trật tự xây dựng đô thị; đồng thời, áp dụng các biện pháp ngừng cung cấp các dịch vụ điện, nước và các dịch vụ khác liên quan đến xây dựng công trình; cấm các phương tiện vận tải chuyên chở vật tư, vật liệu, công nhân vào thi công xây dựng;

    c) Cưỡng chế phá dỡ nếu chủ đầu tư không thực hiện quyết định đình chỉ thi công xây dựng. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm về toàn bộ chi phí lập phương án phá dỡ (nếu có) và chi phí tổ chức cưỡng chế phá dỡ.

    2. Đối với những công trình xây dựng không có Giấy phép xây dựng nhưng đủ điều kiện để cấp Giấy phép xây dựng theo quy định thì xử lý như sau:

    a) Những công trình xây dựng phải bị lập biên bản ngừng thi công xây dựng, yêu cầu chủ đầu tư làm thủ tục xin cấp Giấy phép xây dựng gồm: công trình xây dựng phù hợp vị trí quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt; công trình xây dựng trên đất ở có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà, phù hợp quy hoạch xây dựng; xây dựng mới trên nền nhà cũ hoặc cải tạo nhà đang ở phù hợp quy hoạch xây dựng; công trình xây dựng trên đất có đủ điều kiện về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai;

    b) Trường hợp chủ đầu tư không ngừng thi công xây dựng, công trình phải bị đình chỉ thi công xây dựng, buộc xin cấp Giấy phép xây dựng, đồng thời áp dụng các biện pháp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này.

    Trong thời hạn tối đa 60 ngày, kể từ ngày có quyết định đình chỉ thi công xây dựng, chủ đầu tư không xuất trình Giấy phép xây dựng do cơ quan có thẩm quyền cấp thì bị cưỡng chế phá dỡ;

    c) Sau khi được cấp Giấy phép xây dựng, nếu công trình đã xây dựng sai nội dung Giấy phép xây dựng thì chủ đầu tư phải tự phá dỡ phần sai nội dung Giấy phép xây dựng. Sau khi tự phá dỡ công trình sai nội dung Giấy phép xây dựng, chủ đầu tư mới được tiếp tục thi công xây dựng.

    Trường hợp chủ đầu tư không tự phá dỡ phần sai nội dung Giấy phép xây dựng được cấp thì phải bị cưỡng chế phá dỡ theo quy định tại Điều 24 Nghị định này và phải chịu trách nhiệm về toàn bộ chi phí tổ chức cưỡng chế phá dỡ;

    d) Trường hợp chủ đầu tư bị từ chối cấp Giấy phép xây dựng hoặc không có Giấy phép xây dựng sau thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều này thì chủ đầu tư phải tự phá dỡ công trình vi phạm, nếu chủ đầu tư không tự phá dỡ thì bị cưỡng chế phá dỡ và phải chịu trách nhiệm về toàn bộ chi phí tổ chức

    Điều 15. Xử lý công trình xây dựng ảnh hưởng đến chất lượng công trình lân cận; ảnh hưởng đến môi trường, cộng đồng dân cư

    1. Trường hợp công trình xây dựng gây lún, nứt, thấm, dột hoặc có nguy cơ làm sụp đổ các công trình lân cận thì phải ngừng thi công xây dựng để thực hiện bồi thường thiệt hại:

    a) Việc bồi thường thiệt hại do chủ đầu tư và bên bị thiệt hại tự thỏa thuận; Trường hợp các bên không thoả thuận được thì bên thiệt hại có quyền khởi kiện đòi bồi thường tại toà án;

    b) Công trình chỉ được phép tiếp tục thi công xây dựng khi các bên đạt được thỏa thuận việc bồi thường thiệt hại.

    cưỡng chế phá dỡ.