Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 09:33:40 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định của pháp luật thì luật sư có thể cung cấp các dịch vụ pháp lý sau:

    - Tham gia tố tụng (bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các cá nhân, tổ chức trong các vụ án Hình sự; Dân sự; Hành Chính; Lao động; Kinh Doanh - thương mại.... với tư cách pháp lý là Người bào chữa; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp hoặc Người đại diện theo ủy quyền của đương sự);

    - Đại diện ngoài tố tụng (thay mặt khách hàng thực hiện các thủ tục hành chính, pháp lý, đàm phán hợp đồng, thu hồi nợ xấu....);

    - Tư vấn pháp luật (tất cả các lĩnh vực pháp luật: Chỉ ra tình trạng pháp lý và cung cấp giải pháp pháp lý để khách hàng xử lý những vấn đề mà mình đang vướng mắc);

    - Dịch vụ pháp lý khác (Soạn thảo đơn thư, văn bản, tài liệu, hợp đồng, di chúc......

    Do vậy, nếu bạn không có thời gian để giải quyết việc thu hồi nợ đó hoặc không muốn va chạm với người vay nợ thì có thể ủy quyền cho Luật sư tham gia đàm phán với bên vay; làm việc với công an, tòa án, kiểm sát, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các bên có liên quan để thu hồi khoản nợ đó cho bạn (bạn không phải trực tiếp đòi nợ, không cần tham gia vào thủ tục trên...).

    Bạn có thể liên hệ với Luật sư ở địa phương bạn để thống nhất phương thức thu hồi nợ và thù lao luật sư...

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 03:02:49 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Theo quy định tại Điều 159 BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 thì tranh chấp về quyền sử dụng đất không tính thời hiệu khởi kiện. Do vậy, nếu việc tranh chấp quyền sử dụng đất giữa gia đình bạn với gia đình ông bác sĩ kia chưa được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì gia đình bạn có thể khởi kiện gia đình ông bác sỹ kia theo thủ tục tố tụng dân sự.

           Còn việc khởi kiện vụ án hành chính rất khó bởi thời hiệu khởi kiện theo quy định pháp luật chỉ có 1 năm kể từ ngày có quyết định hành chính, hành vi hành....

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 02:47:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Khoản 2, Điều 12 BLHS: Người chưa thành niên từ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội rất nghiêm trọng (hình phạt cao nhất đến 15 năm tù) và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (hình phạt cao nhất trên 15 năm tù) do cố ý.

            Khoản 3, Điều 104 BLHS quy định: "Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.".

           Do vậy, nếu trong quá trình xác minh, công an xác định thương tích của nạn nhân là do cháu bạn gây lên và tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người thì cháu bạn sẽ bị xử lý hình sự. theo quy định tại khoản 3, Điều 104 BLHS.

          - Nếu thương tích dưới 61% thì cháu bạn không phạm tội hình sự, tuy nhiên, cháu bạn có thể bị xử lý hành chính và gia đình bạn phải bồi thường cho gia đình nạn nhân do hành vi gây thương tích trên.

          - Nếu vết thương do cháu bạn gây ra không đáng kể, việc ngất sỉu và phải cấp cứu, điều trị là do tác động khác thì cháu bạn chỉ phải bồi thường một phần thiệt hại xảy ra...

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 02:16:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu hợp đồng giữa bố bạn với người mua là hợp đồng đặt cọc (có công chứng) thì có thể là hợp đồng hợp pháp. Nếu là Hợp đồng chuyển nhượng (sau ngày 01/01/2008) mà đất chưa có sổ đỏ (kể cả có công chứng hợp đồng chuyển nhượng) thì Hợp đồng đó sẽ vô hiệu.

            Nếu bên mua vi phạm hợp đồng thì bạn có thể yêu cầu tuyên bố hủy bỏ hợp đồng hoặc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 02:13:13 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             1. Việc bác bạn có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không phụ thuộc vào kết quả điều tra vụ án: Nếu bác bạn có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác hoặc cùng những người khác thực hiện hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thì phạm tội theo quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể hình phạt được quy định như sau;

    "Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc  tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

                    2. Gia đình bạn có thể yêu cầu được bảo lĩnh để bác của bạn được tại ngoại theo quy định tại Điều 92 BLTTHS. Tuy nhiên nếu trường hợp phạm tội thuộc khoản 4, Điều 139 thì ít có cơ hội tại ngoại. Gia đình bạn có thể mời luật sư tham gia vụ án để tư vấn pháp luật và bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho bác bạn.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 02:03:35 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu người vay tiền của bạn bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì bạn có thể trình báo sự việc với công an để xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Khi công an hoặc tòa án thụ lý vụ án thì các cơ quan này sẽ công văn tới Phòng TN&MT yêu cầu dừng giao dịch về nhà đất của người vay tiền để tránh việc tẩu tán tài sản. Bạn cũng có thể tạo ra tranh chấp để dừng việc chuyển dịch tài sản đó.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 11:42:09 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo quy định tại khoản 3, Điều 41 Bộ luật Lao động (đã sửa đổi, bổ sung) quy định: “Trong trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động thì phải bồi thường chi phí đào tạo (nếu có) theo quy định của Chính phủ”.

    Khoản 4, Điều 18, Nghị định số 139/2006/NĐ-CP ngày 20/11/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục và Bộ luật lao động về dạy nghề quy định: “Trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để sau đó làm việc tại doanh nghiệp, nếu người học nghề không làm việc theo cam kết thì phải bồi thường chi phí dạy nghề. Mức bồi thường do hai bên thỏa thuận, xác định trong hợp đồng học nghề.

    Chi phí dạy nghề gồm các khoản chi phí hợp lý cho người dạy, tài liệu, vật liệu thực hành, chi phí khấu hao nhà xưởng, máy móc thiết bị và các chi phí khác đã chi cho người học”.

    Trên thực tế, khi người lao động (NLĐ) được doanh nghiệp đào tạo nghề, hoặc cử đi đào tạo kỹ năng, nghiệp vụ, đào tạo nâng cao trình độ, kiến thức... bằng chi phí do doanh nghiệp đài thọ, thì doanh nghiệp thường yêu cầu NLĐ trước khi được đào tạo phải ký cam kết bằng văn bản về việc sau khi được đào tạo phải làm việc cho doanh nghiệp một thời gian nhất định.

    Trường hợp trong bản hợp đồng lao động giữa người sử dụng lao động (NSDLĐ) và NLĐ có thỏa thuận cụ thể về đào tạo và thời gian NLĐ phải làm việc cho NSDLĐ sau khi được đào tạo, trách nhiệm bồi thường khi NLĐ không làm việc đủ thời gian đó, thì các điều khoản về vấn đề này trong hợp đồng lao động được coi là cam kết đào tạo bằng văn bản.

     Do vậy, nếu đã có cam kết đào tạo thì bạn phải tuân thủ cam kết đó. Việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, ngoài thời gian báo trước thì bạn phải có lý do chính đáng và bạn phải giải quyết vấn đề bồi hoàn chi phí đào đạo thực tế mà nhà trường đã bỏ ra và bồi thường những thiệt hại phát sinh do hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật do bạn gây ra.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 11:25:55 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Nếu người thân của bạn là bị can, bị cáo trong vụ án hình sự thì người nhà có thể thực hiện thủ tục bảo lĩnh theo quy định tại Điều 92 BLTTHS. Còn nếu bị xử lý hành chính bằng trường hợp đưa vào trường giáo dưỡng, phục hồi nhân phẩm... thì việc bảo lĩnh không theo quy định trên và rất khó để được bảo lĩnh.

           Tuy nhiên, bạn cũng có thể liên hệ với luật sư tại địa phương để được tư vấn và hướng dẫn một số thủ tục pháp lý cần thiết trong trường hợp của bạn.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 11:12:58 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Bạn phải "làm sao" để có tài liệu, chứng cứ về việc vay nợ đó thì mới có căn cứ để Tòa án giải quyết. Nếu người vay tiền của bạn gian dối, bỏ trốn hoặc sử dụng tiền vay vào mục đích phi pháp thì bạn có thể trình báo sự việc đó với công an để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 11:01:54 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Giấy tờ mà bạn nêu chưa đủ chứng minh được "quyền sở hữu" của bạn đối với Kiot đó. Tuy nhiên, nếu có tranh chấp thì cũng là căn cứ để Tòa án giải quyết vụ việc. Nếu bạn có tên trong Hợp đồng thuê kiot hoặc có tên trong đăng ký kinh doanh tại Kiot đó thì mới có cơ sở pháp lý vững chắc.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 10:58:43 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Trách nhiệm hình sự:

    Nếu hành vi gây đánh người gây thương tích của bạn mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bạn sẽ bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại khoản 1, Điều 104 BLHS (trừ trường hợp người bị hại rút đơn):

    "a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.".

    2. Trách nhiệm dân sự:

    Bạn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân theo quy định tại mục 1, phần II của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HDDTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể như sau:

    "Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường."

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 10:46:31 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Ðiều 498 BLDS quy định về đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà ở như sau:

    "1. Bên cho thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên thuê có một trong các hành vi sau đây:

    a) Không trả tiền thuê nhà liên tiếp trong ba tháng trở lên mà không có lý do chính đáng;

    b) Sử dụng nhà không đúng mục đích thuê;

    c) Cố ý làm nhà hư hỏng nghiêm trọng;

    d) Sửa chữa, đổi hoặc cho người khác thuê lại toàn bộ hoặc một phần nhà đang thuê mà không có sự đồng ý bằng văn bản của bên cho thuê;

    đ) Làm mất trật tự công cộng nhiều lần và ảnh hưởng nghiêm trọng đến sinh hoạt bình thường của những người chung quanh;

    e) Làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến vệ sinh môi trường.

    2. Bên thuê nhà có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà khi bên cho thuê có một trong các hành vi sau đây:

    a) Không sửa chữa nhà khi chất lượng nhà giảm sút nghiêm trọng;

    b) Tăng giá thuê nhà bất hợp lý.

    c) Quyền sử dụng nhà ở bị hạn chế do lợi ích của người thứ ba.

    3. Bên đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà phải báo cho bên kia biết trước một tháng, nếu không có thỏa thuận khác.".

               Như vậy, nếu bên cho thuê nhà đơn phương chấm dứt hợp đồng cho thuê nhà không đúng quy định pháp luật nêu trên thì bạn có thể khởi kiện để yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 426 BLDS. Tuy nhiên, nếu Hợp đồng thuê nhà của bạn chưa đủ điều kiện có hiệu lực pháp luật thì tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả theo quy định tại Điều 137 BLDS.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 10:30:39 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc chuyển mục đích sử dụng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp phải được sự cho phép của các cơ quan có thẩm quyền (khoản 2, Điều 36 Luật đất đai). Điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất được quy định tại Nghị định số 42/2012 về quản lý, sử dụng đất trồng lúa, cụ thể như sau:

    "Điều 5. Quản lý việc chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa

    1. Điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước:

    a) Phải phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép chuyển mục đích sử dụng;

    b) Phải có phương án sử dụng đất tiết kiệm tối đa, thể hiện trong thuyết minh tổng thể của dự án được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt;

    c) Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp từ đất chuyên trồng lúa nước theo quy định tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định này phải có phương án sử dụng lớp đất mặt và bù bổ sung diện tích đất chuyên trồng lúa nước bị mất do chuyển mục đích sử dụng theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 và Khoản 2 Điều 9 của Nghị định này.

    2. Điều kiện chuyển mục đích sử dụng đất lúa khác:

    a) Chuyển đất lúa khác sang sử dụng vào trồng cây hàng năm phải phù hợp với kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng của địa phương và không ảnh hưởng tới mục đích trồng lúa sau này;

    b) Chuyển đất lúa khác sang sử dụng vào trồng cây lâu năm, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản thực hiện theo quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều này;

    c) Chuyển đất lúa sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thực hiện theo quy định tại Điểm a, Điểm b Khoản 1 Điều này.

    3. Thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất chuyên trồng lúa nước: Trường hợp chuyển đất chuyên trồng lúa nước sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 4 của Nghị định này, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép trước khi Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất.

    4. Thẩm quyền quyết định chuyển mục đích sử dụng đất lúa khác:

    a) Hộ gia đình, cá nhân khi chuyển đất lúa khác sang trồng cây hàng năm phải báo cáo Ủy ban nhân dân cấp xã;

    b) Ngoài trường hợp quy định tại Điểm a, khi chuyển đất lúa khác sang sử dụng vào mục đích khác, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ cho phép trước khi Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền quyết định việc chuyển mục đích sử dụng đất.

    Điều 6. Trách nhiệm của người sử dụng đất trồng lúa

    1. Sử dụng đúng mục đích theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trồng lúa đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt.

    2. Sử dụng tiết kiệm, không bỏ đất hoang, không làm ô nhiễm, thoái hóa đất.

    3. Canh tác đúng kỹ thuật, thực hiện luân canh, tăng vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất; cải tạo, làm tăng độ màu mỡ của đất, bảo vệ môi trường sinh thái.

    4. Người sử dụng đất trồng lúa thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và các quy định khác của pháp luật có liên quan.".

    Theo thông tin bạn nêu, gia đình bạn sử dụng đất sai mục đích và đang bị xử lý hành chính nên chính quyền sẽ không cho phép gia đình bạn chuyển mục đích sử dụng đất tại thời điểm đang có vi phạm.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 10:00:46 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 42 và Điều 43 Luật đất đai sửa đổi, bổ sung năm 2009 -2010, cụ thể như sau:

    "Điều 42: Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi

    1. Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Điều 50 của Luật này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 và các điểm b, c, d, đ và g khoản 1 Điều 43 của Luật này.

    2. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi.

    3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở. Khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ.

    Trường hợp không có khu tái định cư thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực đô thị; bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó.

    4. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới.

    5. Trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường, hỗ trợ.

    6. Chính phủ quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất.

    Điều 43: Những trường hợp thu hồi đất mà không bồi thường

    1. Nhà nước thu hồi đất mà không bồi thường về đất trong các trường hợp sau đây:

    a) Thu hồi đất trong các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11 và 12 Điều 38 của Luật này;

    b) Đất rừng phòng hộ; đất rừng đặc dụng; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây dựng công trình sự nghiệp; đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng các công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao và các công trình công cộng khác không nhằm mục đích kinh doanh; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa;

    c) Đất nông nghiệp do cộng đồng dân cư sử dụng;

    d) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất, tiền nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

    đ) Đất thuê của Nhà nước;

    e) Trường hợp không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Điều 50 của Luật này;

    g) Đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn.

    2. Khi Nhà nước thu hồi đất, người bị thu hồi đất không được bồi thường về tài sản gắn liền với đất trong các trường hợp sau đây:

    a) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra tại khu vực đất bị thu hồi sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được công bố mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép;

    b) Tài sản gắn liền với đất được tạo ra trước khi có quyết định thu hồi đất mà trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại thời điểm xây dựng công trình đó;

    c) Đất bị thu hồi thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 4, 6, 7 và 10 Điều 38 của Luật này.

    3. Người bị thu hồi đất quy định tại khoản 1 nhưng không thuộc khoản 2 Điều này được bồi thường thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi.

    4. Chính phủ quy định việc xử lý đối với tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, tài sản đã đầu tư trên đất trong trường hợp thu hồi đất quy định tại các khoản 2, 3, 5, 8, 9, 11 và 12 Điều 38 của Luật này.".

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 09:38:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Nếu cơ quan Nhà nước thu hồi đất không đúng thẩm quyền hoặc không ban hành quyết định thu hồi đất hoặc không giao quyết định thu hồi đất cho người sử dụng đất... hoặc cho rằng các cơ quan quản lý đất đai có vi phạm về việc quản lý đất đai... thì người sử dụng đất có thể khiếu nại theo quy định tại Điều 138 Luật đất đai hoặc khởi kiện theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2011.

  • Xem thêm     

    07/09/2012, 09:26:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Như vậy là vụ việc đã có dấu hiệu tội phạm lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Công an sẽ xem xét tiến hành khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với người mượn xe của bạn, phát lệnh truy nã. Đối với người mua xe, nếu biết là "xe gian" vẫn mua thì cũng bị khởi tố về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có...

          Sau khi tiến hành các thủ tục pháp lý cần thiết xác định được chủ xe và hành vi phạm tội thì công an xẽ trả lại xe cho bạn. Luật không quy định thời gian cụ thể nhưng chậm nhất là kết thúc điều tra. Để nhanh được lấy xe thì bạn có thể gửi đơn yêu cầu nhận lại tài sản đến thủ trưởng cơ quan điều tra đó.

  • Xem thêm     

    06/09/2012, 07:37:08 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập cho đến nay đều quy định việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực  và phải được đăng ký, sang tên theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, "dân ta" không biết rõ về quy định đó nên thường "viết tay", thậm chí còn "không viết gì" khi mua bán nhà đất.

            Để khắc phục hậu quả "luật không đi vào đời sống" đó thì Nhà nước có ban hành một số văn bản để công nhận những giao dịch chuyển nhượng, mua bán nhà đất thực sự nhưng chưa làm thủ tục (Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch Nhà ở trước năm 1991; Nghị quyết 1037/2006/NQ-UBTVQH11 về giao dịch Nhà ở có yếu tố nước ngoài trước năm 1991; Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình...). Những văn bản trên mới thừa nhận sự việc đã rồi. Giao dịch của bác bạn có thể áp dụng quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP để giải quyết.

  • Xem thêm     

    06/09/2012, 07:18:41 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Theo quy định tại khoản 2, Điều 136 Luật đất đai hiện hành thì nếu tranh chấp quyền sử dụng đất mà đã có GCN QSD đất hoặc có một trong các loại giấy tờ về QSD đất quy định tại khoản 1, 2 hoặc khoản 5 Điều 50 luật đất đai hoặc tranh chấp về tài sản trên đất thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án. Nếu không thuộc một trong các trường hợp trên thì thẩm quyền thuộc về UBND.

              Nếu thửa đất tái định cư của gia đình bạn đã có Quyết định giao đất tái định cư và có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất  hoặc Sổ địa chính thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nơi có đất. Sau này 01/01/2008 mà việc chuyển nhượng QSD đất chưa có GCN QSD đất đều không được pháp luật công nhận - vô hiệu (Điều 66 Nghị định 84/2007/NĐ-CP)

  • Xem thêm     

    06/09/2012, 06:59:22 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Giao dịch như bạn nói rất khó để công chứng. Bạn chỉ có thể thỏa thuận viết tay về việc mua bán Kiot sau đó ký lại hợp đồng thuê kiot với Ban quản lý chợ để được là một trong những bên của hợp đồng.

    Còn việc bạn có đầu tư vốn để kinh doanh hay không là một việc khác. Nếu bạn đã có tên trên hợp đông thuê kiot thì người nào kinh doanh kiot đó phải thanh toán 1/2 giá trị thuê kiot (cho thuê lại) cho bạn. Nếu bạn muốn cùng đứng tên trong Đăng ký kinh doanh thì phải chuyển từ mô hình Hộ gia đình sang Công ty TNHH... hoặc đăng ký lại Đăng ký kinh doanh để bạn có tên trong Hộ gia đình đó.

  • Xem thêm     

    06/09/2012, 06:53:55 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Một trong những điều kiện để được cấp GCN QSD đất theo quy định tại Điều 49 và Điều 50 Luật đất đai hiện hành là: "Đất không có tranh chấp". Do vậy, nếu thửa đất gia đình bạn đang sử dụng mà có tranh chấp thì không đủ điều kiện cấp GCN QSD đất. Gia đình bạn phải giải quyết xong tranh chấp thì căn cứ vào biên bản thỏa thuận hoặc bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thì UBND mới cấp GCN QSD đất cho gia đình bạn.

    - Nếu trước đó trong các hồ sơ, tài liệu của các cơ quan quản lý đất đai không có tên của ông bà bạn mà chỉ có tên của bố bạn. Ngoài ra, các cô, chú, bác của bạn cũng không có văn bản, tài liệu nào chứng minh quyền sử dụng đất hợp pháp của ông, bà bạn theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai thì mới có căn cứ để xác định bố bạn là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất đó. Việc bố bạn được công nhận 1 thửa đất hay 3 thửa đất phụ thuộc vào các giấy tờ về quyền sử dụng quy định theo ĐIều 50 Luật đất đai;

    - Nếu ông bà bạn đã chết quá 10 năm và nhà đất đứng tên ông bà thì các cô, chú, bác bạn chỉ được chia nhà đất đó nếu có sự đồng ý của người đang sử dụng (bố bạn);

    - Biên bản thỏa thuận chia thừa kế chỉ có giá trị pháp lý nếu có sự đồng ý của tất cả các thừa kế và có xác nhận của chính quyền địa phương. Nếu trong thời hiệu khởi kiện về thừa kế của ông bà bạn mà gia đình bạn đã có biên bản thỏa thuận về thừa kế (không có xác nhận của chính quyền địa phương) nay đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế thì bố bạn vẫn có thể được nhận phần di sản đó theo quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình.