Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 01:52:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Việc của gia đình bạn trước tiên phải xem lại di chúc có điều kiện của các 'cụ". Nếu di chúc có hiệu lực pháp luật thì phải tuân thủ nội dung của di chúc đó. Khi đó anh họ của bố bạn mới có quyền lợi khi bố bạn bán nhà đất.

           Nếu di chúc đó không có hiệu lực pháp luật (không tuân thủ nội dung và hình thức theo pháp luật) thì bố bạn không bị hạn chế bởi quy định trong di chúc đó và anh họ của bố bạn không có quyền lợi gì.

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 09:48:39 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Việc anh chồng bạn mượn xe rồi mang đi cầm cố là vi phạm pháp luật, có thể bị xử lý hình sự. Nếu nhà chồng bạn không giải quyền ốn thỏa về việc đó và bạn trình báo sự việc với công an thì anh chồng bạn sẽ bị xử lý.

          Với chiếc xe mua sau này nếu đứng tên bạn thì là tài sản chung vợ chồng và phải phân chia theo quy định pháp luật, trừ trường hợp bạn chứng minh được chiếc xe đó là tài sản riêng do hình thành từ tài sản riêng.

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:49:20 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu khởi kiện tranh chấp dân sự thì thời gian khoảng 4-6 tháng, bên nào thua kiện sẽ phải chịu án phí (khoảng 4% giá trị tài sản tranh chấp).

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:47:23 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì vợ chồng bác Hải không để lại di chúc nên di sản của hai bác sẽ được thừa kế theo pháp luật cho các thừa kế quy định tại Điều 676 BLDS, cụ thể như sau:

    "Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

             Như vậy, bố bạn thuộc hàng thừa kế thứ hai nên chỉ được hưởng di sản nếu hai bác của bạn không còn ai thuộc hàng thừa kế thứ nhất (bố mẹ hai bác).

            Nếu di sản là đất đai thì thủ tục khai nhận di sản phải được lập thành văn bản, có công chứng và đăng ký tại Phòng tài nguyên và môi trường nơi có nhà đất đó. Bố bạn có thể liên hệ với Phòng/Văn phòng công chứng tại tỉnh nơi có đất (Hải Phòng) để được hướng dẫn và thực hiện thủ tục khai nhận, đăng ký thừa kế.

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:39:53 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

                Nếu tài sản của bác là tài sản riêng, không liên quan đến chồng thì bác có toàn quyền lập di chúc để định đoạt tài sản đó.      

              Nếu là tài sản chung vợ chồng thì bác chỉ có thể lập di chúc để định đoạt phần tài sản của bác trong khối tài sản chung vợ chồng.

             Để đảm bảo giá trị về mặt pháp lý thì bác nên nhờ Luật sư hoặc Công chứng viên soạn di chúc theo ý chí của bác thì sẽ yên tâm hơn.

               Bác có thể tham khảo một số quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

    "Ðiều 652. Di chúc hợp pháp

    1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;

    b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    2. Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.

    3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.

    4. Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Ðiều này.

    5. Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.

    Ðiều 653. Nội dung của di chúc bằng văn bản

    1. Di chúc phải ghi rõ:

    a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

    b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

    c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

    d) Di sản để lại và nơi có di sản;

    đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ.

    2. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

    Ðiều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

    Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

    1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

    2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

    3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.

    Ðiều 655. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

    Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

    Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 của Bộ luật này.

    Ðiều 656. Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

    Trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

    Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Ðiều 653 và Ðiều 654 của Bộ luật này.

    Ðiều 657. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

    Người lập di chúc có thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc.

    Ðiều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

    Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

    1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;

    2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng."

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:31:43 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Trong trường hợp đó cơ quan thi hành án gửi thông báo qua đường bưu điện hoặc niêm yết tại trụ sở nơi người phải thi hành án cư trú. Nếu họ không đến làm việc thì vẫn có thể tổ chức cưỡng chế theo Luật thi hành án.

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:29:02 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Việc mua bán kiốt như bạn nói thường chỉ là Hợp đồng thuê đất hoặc thuê cửa hàng đối với chủ đầu tư hoặc Ban quản lý chợ. Nếu bạn mua chung như vậy thì cần ký lại hợp đồng thuê kiốt để có tên trong hợp đồng chính. Nếu không làm được như vậy thì chỉ có thể thỏa thuận viết tay giữa các bên.

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:24:45 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Tòa án xử vụ án đó có đúng hay không phụ thuộc vào tài liệu, chứng cứ mà các bên đương sự cung cấp và phụ thuộc vào cách đánh giá chứng cứ của Hội đồng xét xử. Luật sư chưa tiếp xúc với hồ sơ vụ án thì chưa thể khẳng định với bạn được là Tòa xử có đúng hay không!

               Nếu tại Tòa án mà bác của bạn không chứng minh được là có việc mua bán, chuyển nhượng thì bác bạn phải trả lại toàn bộ giá trị quyền sử dụng đất đó. Bác bạn chỉ có thể được bồi thường một phần giá trị tài sản trên đất hoặc giá trị do làm tăng giá trị quyền sử dụng đất...

               Nếu bác bạn có tài liệu chứng cứ chứng minh là có việc mua bán, chuyển nhượng và đã thanh toán hết tiền thì Tòa án sẽ áp dụng các quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để giải quyết. Tòa án có thể công nhận một phần hoặc toàn bộ Hợp đồng chuyển nhượng đó. Theo quy định của pháp luật thì việc mua bán, chuyển nhượng nhà đất giữa các thành viên trong gia đình, giữa những người ruột thịt cũng bắt buộc phải thể hiện bằng văn bản, có công chứng, chứng thực và phải đăng ký. Tuy nhiên, nếu không tuân thủ về hình thức của hợp đồng nhưng đã trả tiền và nhận, sử dụng đất, đã trồng cây lâu năm, xây nhà kiên cố mà chính quyền không xử phạt, bên chuyển nhượng không phản đối thì có thể công nhận hợp đồng đó...

                Bạn có thể cung cấp thêm thông tin, tài liệu để được luật sư tư vấn cụ thể hơn..

  • Xem thêm     

    04/09/2012, 08:13:09 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Chỉ cần người nhận tiền của bạn ghi giấy đúng với nội dung giao dịch đó là có căn cứ để bạn giải quyết các vụ việc phát sinh về sau... Không cần phải theo mẫu nào cả.

           Vụ việc của bạn có thể cấu thành tội đưa, nhận hối lộ. Nhưng thực tế khó chứng minh được tội này nên khi người nhận tiền không hoàn thành công việc, cũng không trả lại tiền thì sẽ bị xử lý về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, hoặc lừa đảo.

  • Xem thêm     

    03/09/2012, 10:39:50 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật khiếu nại, tố cáo ban hành năm 1998, sửa đổi bổ sung năm 2004 và năm 2005 đến năm 2011  thì Luật khiếu nại, tố cáo tách thành hai luật riêng là Luật khiếu nại và Luật tố cáo ( có hiệu lực từ 01/7/2012).

    Cụ thể Luật khiếu nại quy định như sau:

    'Điều 2. Giải thích từ ngữ

    Trong Luật này các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:

    1. Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật này quy định, đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

    2. Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại.

    .......

    Điều 7. Trình tự khiếu nại

    1. Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    2. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. 

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    3. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính.

    Điều 8. Hình thức khiếu nại

    1. Việc khiếu nại được thực hiện bằng đơn khiếu nại hoặc khiếu nại trực tiếp.

    2. Trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ ngày, tháng, năm khiếu nại; tên, địa chỉ của người khiếu nại; tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại; nội dung, lý do khiếu nại, tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại và yêu cầu giải quyết của người khiếu nại. Đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ.

    3. Trường hợp người khiếu nại đến khiếu nại trực tiếp thì người tiếp nhận khiếu nại hướng dẫn người khiếu nại viết đơn khiếu nại hoặc người tiếp nhận ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản và yêu cầu người khiếu nại ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này.

    4. Trường hợp nhiều người cùng khiếu nại về một nội dung thì thực hiện như sau:

    a) Trường hợp nhiều người đến khiếu nại trực tiếp thì cơ quan có thẩm quyền tổ chức tiếp và hướng dẫn người khiếu nại cử đại diện để trình bày nội dung khiếu nại; người tiếp nhận khiếu nại ghi lại việc khiếu nại bằng văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này. Việc tiếp nhiều người cùng khiếu nại thực hiện theo quy định tại Chương V của Luật này;

    b) Trường hợp nhiều người khiếu nại bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ nội dung quy định tại khoản 2 Điều này, có chữ ký của những người khiếu nại và phải cử người đại diện để trình bày khi có yêu cầu của người giải quyết khiếu nại;

    c) Chính phủ quy định chi tiết khoản này.

    5. Trường hợp khiếu nại được thực hiện thông qua người đại diện thì người đại diện phải là một trong những người khiếu nại, có giấy tờ chứng minh tính hợp pháp của việc đại diện và thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật này.

    Điều 9. Thời hiệu khiếu nại

    Thời hiệu khiếu nại là 90 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định hành chính hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

    Trường hợp người khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu vì ốm đau, thiên tai, địch họa, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại."

            Do vậy, nếu bạn thấy hành vi "chăm" kiểm tra của QLTT là trái pháp luật, gây sách nhiễu, ảnh hưởng đến sản xuất, kinh doanh của gia đình bạn thì bạn có quyền khiếu nại đến thủ trưởng của cơ quan đó để được giải quyết theo Luật khiếu nại hiện hành hoặc khởi kiện đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính.

  • Xem thêm     

    03/09/2012, 09:27:35 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Việc vay nợ của bạn như vậy có thể xác định là hợp đồng vay tài sản có biện pháp đảm bảo (thế chấp)... việc thế chấp đó có thể là hợp pháp. Tuy nhiên, để lấy tài sản thế chấp đó bạn vẫn phải được sự đồng ý của người vay tiền. Nếu không thì bạn phải khởi kiện để đòi nợ.

    Đối với Ngân hàng cũng vậy, mặc dù có những khoản vay nợ có biện pháp đảm bảo (thế chấp tài sản) tuy nhiên người thế chấp không đồng ý xử lý tài sản thế chấp theo thỏa thuận thì Ngân hàng cũng phải khởi kiện đến Tòa án rồi mới yêu cầu cơ quan Thi hành án kê biên, phát mại tài sản thế chấp...

  • Xem thêm     

    03/09/2012, 08:16:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Theo thông tin trình bày thì bạn mới chỉ bị "xử phạt hành chính" về hành vi đánh bạc chứ chưa bị "kết án" về hành vi đó nên chưa xác định là bạn có "án hình sự" và không tính đến việc xóa án tích. Xóa án tích chỉ áp dụng với người đã có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án, sau một thời gian chấp hành bản án đó.

           Sự kiện nêu trên của bạn chỉ xác định là "tiền sự" và sau này nếu bạn phạm tội thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xác định bạn là người có "nhân thân xấu" và ít có cơ hội được hưởng "án treo".

  • Xem thêm     

    03/09/2012, 08:07:44 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Thảo đã trả lời cho bạn, tôi bổ sung như sau:

          Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung và sử dụng, định đoạt tài sản chung như sau:

    "Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa  thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa  thuận.

    Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

    2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

    Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

    1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.

     3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa  thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.".

            Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất trên là tài sản chung vợ chồng bạn, (thửa đất được tặng cho chung trong thời kỳ hôn nhân). Vợ chồng bạn có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt thửa đất đó.

             Nếu vợ chồng bạn đã thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất đó để lấy tiền cho con ăn học và đã thực hiện việc chuyển nhượng (định đoạt) thì giá trị quyền sử dụng đất đó không còn là tài sản chung vợ chồng, khi vợ chồng bạn ly hôn Tòa án sẽ không chia đối với tài sản đó.

            Tuy nhiên, Tòa án chỉ không chấp nhận yêu cầu chia tài sản chung đối với số tiền chuyển nhượng thửa đất đó nếu bạn có tài liệu, chứng cứ chứng minh là vợ chồng bạn đã tự nguyện thỏa thuận định đoạt tài sản đó để lấy tiền cho con ăn học. Nếu bạn không có tài liệu, chứng cứ chứng minh về việc vợ chồng bạn thỏa thuận sử dụng số tiền chuyển nhượng đất làm tiền nuôi con ăn học thì Tòa án vẫn xác định số tiền bạn đang quản lý là tài sản chung và chia đôi theo quy định tại Điều 95 Luật HN&GĐ.

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 10:05:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào các bạn và Luật sư đồng nghiệp!

            1. Hành vi dùng dao gây thương tích 21% sẽ bị khởi tố và xử lý theo quy định tại khoản 2, Điều 104 BLHS, hình phạt từ 2 đến 7 năm tù như Luật sư Chánh đã nêu. Ghen tuông chỉ lý giải cho động cơ phạm tội, không thể là tình tiết để bao biện cho hành vi phạm tội gây thương tích.

           2. Về phần bồi thường thiệt hại, mục 1, phần II, Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 còn thướng dẫn cụ thể như sau:

    "Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường bao gồm:

    1.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa người bị thiệt hại đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho người bị thiệt hại theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho người bị thiệt hại (nếu có) và các chi phí cho việc lắp chân giả, tay giả, mắt giả, mua xe lăn, xe đẩy, nạng chống và khắc phục thẩm mỹ... để hỗ trợ hoặc thay thế một phần chức năng của cơ thể bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại (nếu có).

    1.2. Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại. Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng do sức khoẻ bị xâm phạm họ phải đi điều trị và do đó khoản thu nhập thực tế của họ bị mất hoặc bị giảm sút, thì họ được bồi thường khoản thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút đó.

    a) Thu nhập thực tế của người bị thiệt hại được xác định như sau:

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động, thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó bị xâm phạm sức khoẻ nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập thực tế nhưng mức thu nhập của các tháng khác nhau, thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi sức khoẻ bị xâm phạm nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại có thu nhập thực tế, nhưng không ổn định và không thể xác định được, thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại nhân với thời gian điều trị để xác định khoản thu nhập thực tế của người bị thiệt hại.

    - Nếu trước khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại chưa làm việc và chưa có thu nhập thực tế thì không được bồi thường theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 609 BLDS.

    b) Xác định thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại được thực hiện như sau:

    Bước một: Xác định thu nhập thực tế của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị có hay không. Nếu có thì tổng số thu nhập là bao nhiêu.

    Bước hai: Lấy tổng số thu nhập thực tế mà người bị thiệt hại có được trong thời gian điều trị so sánh với thu nhập thực tế tương ứng được xác định theo hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 1.2 này. Nếu không có khoản thu nhập thực tế nào của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị mất; nếu thấp hơn thì khoản chênh lệch đó là thu nhập thực tế của người bị thiệt hại bị giảm sút; nếu bằng thì thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không bị mất.

    Ví dụ 1: A làm nghề sửa xe máy tự do. Thu nhập thực tế của A trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là một triệu đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, A phải điều trị nên không có khoản thu nhập nào. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của A bị mất.

    Ví dụ 2: B làm công cho một công ty trách nhiệm hữu hạn. Thu nhập thực tế của B trước khi sức khoẻ bị xâm phạm là ổn định, trung bình mỗi tháng là 600 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, B phải điều trị và trong thời gian điều trị công ty trả cho B 50% tiền lương là 300 ngàn đồng. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của B mỗi tháng bị giảm sút 300 ngàn đồng.

    Ví dụ 3: C là công chức có thu nhập hàng tháng ổn định 500 ngàn đồng. Do sức khoẻ bị xâm phạm, C phải điều trị và trong thời gian điều trị cơ quan vẫn trả đủ các khoản thu nhập cho C. Trong trường hợp này thu nhập thực tế của C không bị mất.

    1.3. Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị.

    a) Chi phí hợp lý cho người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị bao gồm: tiền tàu, xe đi lại, tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cơ sở y tế.

    b) Thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được xác định như sau:

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có thu nhập thực tế ổn định từ tiền lương trong biên chế, tiền công từ hợp đồng lao động thì căn cứ vào mức lương, tiền công của tháng liền kề trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại có làm việc và hàng tháng có thu nhập ổn định, nhưng có mức thu nhập khác nhau thì lấy mức thu nhập trung bình của 6 tháng liền kề (nếu chưa đủ 6 tháng thì của tất cả các tháng) trước khi người đó phải đi chăm sóc người bị thiệt hại nhân với thời gian chăm sóc để xác định khoản thu nhập thực tế bị mất.

    - Nếu người chăm sóc người bị thiệt hại không có việc làm hoặc có tháng làm việc, có tháng không và do đó không có thu nhập ổn định thì được hưởng tiền công chăm sóc bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú.

    - Nếu trong thời gian chăm sóc người bị thiệt hại, người chăm sóc vẫn được cơ quan, người sử dụng lao động trả lương, trả tiền công lao động theo quy định của pháp luật lao động, bảo hiểm xã hội thì họ không bị mất thu nhập thực tế và do đó không được bồi thường.

    1.4. Trong trường hợp sau khi điều trị, người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc (người bị thiệt hại không còn khả năng lao động do bị liệt cột sống, mù hai mắt, liệt hai chi, bị tâm thần nặng và các trường hợp khác do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định bị suy giảm khả năng lao động vĩnh viễn từ 81% trở lên) thì phải bồi thường chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    a) Chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại bao gồm: chi phí hợp lý hàng tháng cho việc nuôi dưỡng, điều trị người bị thiệt hại và chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại.

    b) Chi phí hợp lý cho người thường xuyên chăm sóc người bị thiệt hại được tính bằng mức tiền công trung bình trả cho người chăm sóc người tàn tật tại địa phương nơi người bị thiệt hại cư trú. Về nguyên tắc, chỉ tính bồi thường thiệt hại cho một người chăm sóc người bị thiệt hại do mất khả năng lao động.

    1.5. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm.

                a) Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do sức khoẻ bị xâm phạm được bồi thường cho chính người bị thiệt hại.

                b) Trong mọi trường hợp, khi sức khoẻ bị xâm phạm, người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần cần căn cứ vào sự ảnh hưởng đến nghề nghiệp, thẩm mỹ, giao tiếp xã hội, sinh hoạt gia đình và cá nhân…

                c) Mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại trước hết do các bên thoả thuận. Nếu không thoả thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, nhưng tối đa không quá 30 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường."

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 09:52:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn Tinhyhieuanh59!
            Hành vi chém người của Phạm Xuân Dụng phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản nào của Điều 104 BLHS, tùy thuộc vào tỷ lệ thương tật của bạn. Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân."

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 09:37:35 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Nếu Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bạn được cấp không đúng pháp luật hoặc có sai sót trong thông tin Giấy chứng nhận thì cơ quan cấp GCN QSD đất có thể thu hồi GCN QSD đất đó để chỉnh lý, đính chính theo quy định pháp luật. Đồng thời, gia đình bạn cũng có quyền khiếu nại về việc thu hồi, đính chính GCN QSD đất đó.

    2. Nếu bạn nộp GCN QSD đất cho cán bộ UBND xã mà không ký giấy giao nhận thì không có căn cứ để đòi GCN QSD đất hoặc khiếu kiện về việc thu hồi GCN QSD đất trái pháp luật;

    3. Nếu GCN QSD đất của gia đình bạn đang thế chấp tại Ngân hàng, việc thế chấp là hợp pháp thì Ngân hàng sẽ là người giữ GCN QSD đất của bạn, chứ tại sao bạn lại được giữ GCN QSD đất(?)

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 12:01:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc giải phóng mặt bằng đó chỉ được phép thực hiện sau khi phương án được phê duyệt, có quyết định thu hồi đất và đền bù thỏa đáng.

    Nếu chính quyền địa phương thu hồi đất của bạn để sử dụng vào mục đích khác mà không ra quyết định thu hồi đất hoặc không đền bù thỏa đáng thì gia đình bạn có thể khiếu kiện theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 11:58:19 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Tại thời điểm trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, bạn không thuộc trường hợp được tạm hoãn nghĩa vụ quân sự theo quy định tại Điều 29 Luật nghĩa vụ quân sự (sau khi trúng tuyển mới xuất hiện điều kiện tạm hoãn) thì bạn vẫn phải thực hiện nghĩa vụ quân sự.

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 11:55:02 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Hợp đồng cho thuê lại  cửa hàng đó là hợp đồng vô hiệu do vi phạm quy định tại Điều 496 và Điều 132 Bộ luật dân sự hiện hành do vậy bạn có thể khởi kiện đến tòa án nơi có cửa hàng đó để yêu cầu hủy hợp đồng và đòi lại số tiền bạn đã giao. Bạn tham khảo một số quy định sau đây của Bộ luật dân sự hiện hành:

    "Ðiều 496. Quyền của bên thuê nhà ở 

    Bên thuê nhà có các quyền sau đây:

    1. Nhận nhà thuê theo đúng thỏa thuận;

    2. Ðược đổi nhà đang thuê với người thuê khác, nếu được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản;

    3. Ðược cho thuê lại nhà đang thuê, nếu được bên cho thuê đồng ý bằng văn bản;

    4. Ðược tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận với bên cho thuê, trong trường hợp thay đổi chủ sở hữu nhà;

    5. Yêu cầu bên cho thuê sửa chữa nhà đang cho thuê trong trường hợp nhà bị hư hỏng nặng.

    6. Ðơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng thuê nhà theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Ðiều 498 của Bộ luật này.

    Ðiều 500. Thuê nhà để sử dụng vào mục đích khác 

    Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác thì quy định tại các điều từ Ðiều 492 đến Ðiều 499 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc thuê nhà sử dụng vào mục đích khác không phải là thuê nhà ở. 

    Điều 132. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa

    Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.

    Điều 136. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều từ Điều 130 đến Điều 134 của Bộ luật này là hai năm, kể từ ngày giao dịch dân sự được xác lập.

    2. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại Điều 128 và Điều 129 của Bộ luật này thì thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế.

    Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu

    1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.".

  • Xem thêm     

    01/09/2012, 11:43:01 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Theo quy định tại Điều 135 và Điều 136 Luật đất đai hiện hành thì UBND xã chỉ có thẩm quyền HÒA GIẢI tranh chấp đất đai, chứ không có THẨM QUYỀN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI. Do vậy, UBND xã không thể "phán quyết" là bà B có thể đòi lại được đất nay không.

    2. Thông tin mà bạn nêu trên chưa đủ căn cứ để giải quyết vụ việc. Luật sư gợi ý bạn như sau:

    - Bạn xem lại nguồn gốc đất trước năm 1954 như thế nào? Căn cứ sử dụng đất của ông A, bà B năm 1954 như thế nào? Nếu năm 1954 chính quyền giao đất cho hộ gia đình ông A sử dụng hoặc Hộ gia đình ông A khai hoang thửa đất đó, khi đó Hộ gia đình ông A gồm có ông A bà B và 4 người con thì nhà đất đó là tài sản chung của cả Hộ gia đình. Nếu có tranh chấp thì sẽ chia đều cho các thành viên trong gia đình;

    - Nếu thửa đất đó do ông cha ông để lại hoặc do ông A bà B mua hoặc chính quyền giao cho ông A, bà B sử dụng... thì là tài sản chung của ông A, bà B. Khi ông A chết thì 1/2 thửa đất đó thuộc về hàng thừa kế thứ nhất của ông A trong đó có các con. Nếu việc chia đất được các thành viên trong gia đình không hợp pháp thì phần diện tích đất của mỗi người sử dụng có 1/2 của ông A, 1/2 của bà B. Trong trường hợp này, bà B có thể đòi lại 1/2 diện tích đất mà ông I đang sử dụng.

    - Nếu trong hồ sơ quản lý đất đai của chính quyền các cấp không thể hiện tên của ông A, bà B mà chỉ thể hiện từ năm 1986 ông i có tên trên Sổ quản sách về quản lý đất đai, ông i không thừa nhận quyền sử dụng đất của ông A, bà B và trường hợp sử dụng đất của ông i đủ điều kiện công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại ĐIều 50 luật đất đai thì bà B sẽ không đòi lại được phần đất đó (tình ngay, lý gian).

    Trong vụ việc trên, thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND huyện hoặc Tòa án theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai. Việc bên nào thắng kiện sẽ phụ thuộc vào khả năng cung cấp chứng cứ của mỗi bên.