Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    11/09/2012, 11:38:18 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu trong giấy vay nợ ghi thời hạn trả nợ sau sáu tháng mà không ghi cụ thể ngày trả thì sẽ được xác định thời hạn vay là 6 tháng, kể từ ngày hợp đồng được ký kết.

    Nếu đến hạn thanh toán nợ theo giấy vay nợ đó mà người vay không trả nợ thì gia đình bạn có thể khởi kiện đến Tòa án nơi người vay cư trú để được xem xét giải quyết.

    Nếu người vay tiền của bạn bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền vay thì bạn có thể yêu cầu côn an xử lý về hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Nếu người vay tiền của bạn không trả tiền mà còn đe dọa, uy hiếp gia đình bạn thì gia đình bạn cũng có thể báo công an để xử lý anh ta theo pháp luật...

    Nếu người vay tiền không thừa nhận việc vay nợ, gia đình bạn không có chứng cứ về việc giao nhận tiền và có căn cứ xác định tại thời điểm ký giấy vay nợ không có việc giao nhận tiền, việc ký giấy chỉ là do bị ép buộc, cưỡng bức... thì gia đình bạn không thể đòi được số tiền đó.

  • Xem thêm     

    10/09/2012, 10:30:40 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Gia đình bạn cần viện dẫn quy định của Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 để yêu cầu Tòa án công nhận hợp đồng chuyển nhượng viết tay đó.

    - Trong vụ việc của bạn cần phải xem lại toàn bộ chứng cứ do hai bên cung cấp, chứng cứ mà tòa án thu thập được  và diễn biến tại phiên tòa thì mới có thể kết luận được là có đủ điều kiện công nhận hợp đồng hay không..

    - Nếu tòa án không công nhận hợp đồng chuyển nhượng thì gia đình bạn cũng sẽ được bồi thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu. Gia đình bạn là diện chính sách sẽ được lưu ý nhưng không không quyết định đến việc thắng thua trong vụ án trên.

  • Xem thêm     

    10/09/2012, 09:08:36 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc của bạn là giao dịch dân sự nên thẩm quyền giải quyết thuộc về tòa án nơi bị đơn cư trú. Nếu người cho vay dùng vũ lực ủy hiếp buộc bạn phải trả tiền thì hành vi đó là phạm pháp và có thể bị xử lý hình sự.

    Để giải quyết dứt điểm vụ việc đó thì bạn có thể khởi kiện anh A tới Tòa án nơi anh A cư trú để yêu cầu chỉ trả cho anh A tiền nợ gốc và lãi suất theo quy định của nhà nước.

  • Xem thêm     

    10/09/2012, 08:58:54 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu khi tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên mà các bên không thể giải quyết được và vụ việc được đưa tới Tòa án giải quyết, khi đó ông bà nội bạn chứng minh được là: Ông bà bạn đã thanh toán tiền, đã nhận đất để trồng cây lâu năm hoặc xây nhà kiên cố mà chính quyền không xử phạt, bên chuyển nhượng không phản đối... thì Tòa án có thể áp dụng quy định của Luật đất đai, bộ luật dân sự và hướng dẫn tại điểm 2.3 mục 2, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (miệng) đó.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:

    "2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này (Chưa có giấy chứng nhận), nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch."

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 10:12:46 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu nhà đất của gia đinh bạn đang ở chưa có quyết định phân nhà, giao nhà để được sở hữu mà chỉ là quyết định cho thuê nhà thuộc sở hữu Nhà nước hoặc giao nhà để ở không phải trả tiền thuê nhưng không được bán, chuyển nhượng... thì nhà đất đó vẫn là của Nhà nước. Muốn được sở hữu nhà và cấp GCN thì gia đình bạn phải tiến hành mua nhà theo quy định tại Nghị định 61-CP.

    Gia đình bạn không nên nộp những khoản tiền không minh bạch (không rõ lý do hoặc không có hóa đơn). Nếu không có quyết định giao nhà, phân nhà để ở thì 50trđ không "đủ" để được cấp GCN QSD đất. Nếu nhà đất của gia đình bạn đủ điều kiện cấp GCN QSD đất, QSH nhà thì đi đêm 50trđ là "thừa".

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 09:44:00 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Thẩm quyền thu hồi GCNQSD đất thuộc về UBND cấp huyện (phòng TN&MT) tuy nhiên Phòng TN&MT có thể ủy quyền, giao quyền cho UBND xã thu hồi GCN và nộp cho Phòng TN&MT.

    Nếu QSD đất của gia đình bạn đã được thế thấp tại Ngân hàng thì việc xử lý đó vẫn được tiến hành. Nếu cơ quan cấp giấy chứng nhận sai sót gây thiệt hại cho Ngân hàng thì ngân hàng có thể khởi kiên cơ quan cấp GCN QSD đất để yêu cầu bồi thường theo luật  trách nhiệm bồi thường Nhà nước.

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 09:25:45 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều kiện cấp GCN QSD đất là phải phù hợp với quy hoạch sử dụng đất. Nếu thửa đất của gia đình bạn đã quy hoạch thành đất công viên cây xanh và đường giao thông được phê duyệt và dự án đó sắp triển khai thì chính quyền có thể từ chối việc tách thửa cho gia đình bạn - Trong trường hợp này UBND cấp tỉnh thường có công văn chỉ đạo các quận (tránh trường hợp người dân tách thửa đất trước khi thu hồi đất để hưởng chính sách tái định cư....);

    Nếu quy hoạch được phê duyệt nhưng chưa triển khai (quy hoạch treo ), UBND cấp tỉnh chưa có văn bản ngăn chặn việc tách thửa đất trong khu vực có dự án  thì bạn vẫn có thể xin phép tách thửa đất theo quy định chung...

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 09:03:07 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


     Chào bạn!

    Trong trường hợp của gia đình bạn thì UBND thành phố Hải Dương phải ra quyết định thu hồi đất và tiến hành bồi thường thỏa đáng... mới đúng pháp luật. Gia đình bạn có thể làm đơn trình báo sự việc trên tới UBND thành phố Hải Dương để được xem xét, giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 08:55:52 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    - Nếu chị bác có giấy tờ về quyền sử dụng đất do chính quyền cũ cấp thì chị bác có thể được cấp GCN QSD đất căn cứ vào khoản 1, Điều 50 Luật đất đai: Giấy tờ về quyền sử dụng đất do chính quyền cũ cấp vẫn có giá trị, làm căn cứ cấp GCN QSD đất;

    - Nếu gia đình bác chứng minh được là đất đó trước năm 1959 là của cha mẹ bác, việc chính quyền cũ cấp giấy chứng nhận nhà đất cho chị bác là không đúng thì mới có cơ hội xác định là di sản của cha mẹ bác để lại (rất khó vì bác không có giấy tờ gì...);

    - Theo thông tin bác nêu thì không có căn cứ nào để được công nhận quyền sử dụng đất. Nếu có căn cứ xác định nhà đất đó "vẫn" là di sản của ba mẹ bác và đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, đồng thời không đủ điều kiện xác định là tài sản chung theo quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP thì bác mới có cơ hội được tiếp tục sử dụng;

    - Việc chia thừa kế, chia tài sản chung phải có sự đồng thuận của tất cả các thừa kế, các chủ sở hữu chung tài sản thì mới có giá trị pháp lý.

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 08:44:02 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

    - Nếu chị bác có giấy tờ về quyền sử dụng đất do chính quyền cũ cấp thì chị bác có thể được cấp GCN QSD đất căn cứ vào khoản 1, Điều 50 Luật đất đai: Giấy tờ về quyền sử dụng đất do chính quyền cũ cấp vẫn có giá trị, làm căn cứ cấp GCN QSD đất;

    - Nếu gia đình bác chứng minh được là đất đó trước năm 1959 là của cha mẹ bác, việc chính quyền cũ cấp giấy chứng nhận nhà đất cho chị bác là không đúng thì mới có cơ hội xác định là di sản của cha mẹ bác để lại (rất khó vì bác không có giấy tờ gì...);

    - Theo thông tin bác nêu thì không có căn cứ nào để được công nhận quyền sử dụng đất. Nếu có căn cứ xác định nhà đất đó "vẫn" là di sản của ba mẹ bác và đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế, đồng thời không đủ điều kiện xác định là tài sản chung theo quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP thì bác mới có cơ hội được tiếp tục sử dụng;

    - Việc chia thừa kế, chia tài sản chung phải có sự đồng thuận của tất cả các thừa kế, các chủ sở hữu chung tài sản thì mới có giá trị pháp lý.

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 08:34:05 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc làm của những người "vay giùm" đó có nhiều rủi ro và có biểu hiện lừa đảo của lãnh đạo công ty, cụ thể như sau:

    - Nếu công ty tuyên bố vỡ nợ, phá sản, giải thể... trước khi đến hạn các giao dịch đó hoặc người đại diện theo pháp luật "cao chạy xa bay" thì những người vay phải bán nhà để trả nợ;

    - Nếu lập hồ sơ khống, giấy tờ giả để vay tiền Ngân hàng và không còn khả năng thanh toán thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản;

    - Nếu những người vay hộ đã "nỡ" rồi thì phải yêu cầu công ty viết giấy biên nhận tiền ( từ ngân hàng -> người vay -> Công ty) và yêu cầu công ty phải dùng tài sản để thế chấp cho khoản vay đó thì may ra mới giảm thiểu được rủi ro...

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 08:24:48 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Như vậy là thửa đất đó của gia đình bạn đã có tranh chấp về đặt cọc mua bán, chuyển nhượng nên không đủ điều kiện cấp GCN QSD đất. Gia đình bạn phải giải quyết xong tranh chấp đó thì mới được cấp GCN QSD đất.

    - Gia đình bạn cần gửi đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai giữa gia đình bạn với người đang tranh chấp đến UBND phường để được tổ chức hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai;

    - Nếu hòa giải không thành thì gia đình bạn có thể khởi kiện đến Tòa án thành phố Hải Dương để được xem xét, giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    09/09/2012, 08:19:40 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Pháp luật không quy định thời hiệu có hiệu lực của văn bản thỏa thuận của gia đình về tài sản. Do vậy, nếu gia đình bạn đã thỏa thuận cách đây 2 năm thì vẫn có thể sử dụng làm căn cứ để thực hiện các cam kết trong văn bản đó trừ trường hợp nay có tranh chấp;

    - Việc bố bạn được cấp GCN QSD đất bao nhiêu m2 phụ thuộc vào các giấy tờ về quyền sử dụng đất của bố bạn theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 50 Luật đất đai. Nếu đất đứng tên người khác thì việc sử dụng lâu năm cũng không có nhiều giá trị.

    - Nếu gia đình bạn hiện đang có tranh chấp thì phải giải quyết tranh chấp đó xong thì mới được cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 10:28:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu bác bạn không biết gì về hành vi lừa đảo, chỉ nhận tiền và được trả công nhưng không biết là tiền phạm pháp thì sẽ không bị xử lý về tội đó.

           Tuy nhiên, có một câu hỏi đặt ra là bác bạn đã là người làm công ở đó thì tại sao lại được trả thêm tiền khi thực hiện việc giao nhận tiền đó (thưởng?).

            Nếu cơ quan công an chứng minh được là bác bạn biết về sự việc lừa đảo đó và có tham gia vào việc chuyển tiền thì bác bạn sẽ cùng bị khởi tố về tội này.

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 10:24:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định của pháp luật thì hành vi vi phạm quy định về quản lý đất đai hoặc vi phạm quy định về xây dựng đều bị xử phạt hành chính. Ngoài việc bị xử phạt hành chính còn có biện pháp khắc phục hậu quả là tháo dỡ công trình vi phạm. Thực tế có thể chính quyền xử phạt mà không cưỡng chế tháo dỡ. Tuy nhiên, nếu chính quyền không khắc phục hậu quả đối với vi phạm của gia đình bạn thì phải chuẩn bị giải trình với cấp trên.. cho lý do chưa buộc tháo dỡ công trình đó...

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 10:20:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được Bộ luật dân sự hiện hành quy định như sau:

    "Ðiều 265. Nghĩa vụ tôn trọng ranh giới giữa các bất động sản

    1. Ranh giới giữa các bất động sản liền kề được xác định theo thỏa thuận của các chủ sở hữu hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

    Ranh giới cũng có thể được xác định theo tập quán hoặc theo ranh giới đã tồn tại từ ba mươi năm trở lên mà không có tranh chấp.

    2. Người có quyền sử dụng đất được sử dụng không gian và lòng đất theo chiều thẳng đứng từ ranh giới trong khuôn viên đất phù hợp với quy hoạch xây dựng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định và không được làm ảnh hưởng đến việc sử dụng đất liền kề của người khác.

    Người sử dụng đất chỉ được trồng cây và làm các việc khác trong khuôn viên đất thuộc quyền sử dụng của mình và theo ranh giới đã được xác định; nếu rễ cây, cành cây vượt quá ranh giới thì phải xén rễ, tỉa cành phần vượt quá, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    3. Trong trường hợp ranh giới là kênh, mương, hào, rãnh, bờ ruộng thì người sử dụng đất có nghĩa vụ tôn trọng, duy trì ranh giới chung; không được lấn, chiếm, thay đổi mốc giới ngăn cách.

    Ðiều 269. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước mưa

    Chủ sở hữu nhà phải lắp đặt đường dẫn nước sao cho nước mưa từ mái nhà của mình không được chảy xuống bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề.

    Ðiều 270. Nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc thoát nước thải

    Chủ sở hữu nhà phải làm cống ngầm hoặc rãnh thoát nước để đưa nước thải ra nơi quy định, sao cho nước thải không chảy tràn sang bất động sản của chủ sở hữu bất động sản liền kề, ra đường công cộng hoặc nơi sinh hoạt công cộng làm ô nhiễm môi trường.

    Ðiều 273. Quyền sử dụng hạn chế bất động sản liền kề

    Chủ sở hữu nhà, người sử dụng đất có quyền sử dụng bất động sản liền kề thuộc sở hữu của người khác để bảo đảm các nhu cầu của mình về lối đi, cấp, thoát nước, cấp khí ga, đường dây tải điện, thông tin liên lạc và các nhu cầu cần thiết khác một cách hợp lý, nhưng phải đền bù, nếu không có thỏa thuận khác.

    Ðiều 277. Quyền về cấp, thoát nước qua bất động sản liền kề

    Trong trường hợp do vị trí tự nhiên của bất động sản mà việc cấp, thoát nước buộc phải qua một bất động sản khác thì chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua phải dành một lối cấp, thoát nước thích hợp, không được cản trở hoặc ngăn chặn dòng nước chảy. Người sử dụng lối cấp, thoát nước phải hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua khi lắp đặt đường dẫn nước; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường. Trong trường hợp nước tự nhiên chảy từ vị trí cao xuống vị trí thấp mà gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản có nước chảy qua thì người sử dụng lối cấp, thoát nước không phải bồi thường thiệt hại."

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 10:10:29 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 62 Luật Xây dựng,  thì các công trình xây dựng sau đây không phải xin cấp phép xây dựng, gồm: Công trình thuộc bí mật nhà nước, công trình xây dựng theo lệnh khẩn cấp, công trình tạm phục vụ xây dựng công trình chính; công trình xây dựng theo tuyến không đi qua đô thị nhưng phù hợp với quy hoạch xây dựng, dự án đầu tư xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; công trình hạ tầng kỹ thuật quy mô nhỏ thuộc các xã vùng sâu, vùng xa; nhà ở riêng lẻ tại vùng sâu, vùng xa không thuộc đô thị, không thuộc điểm dân cư tập trung, điểm dân cư nông thôn chưa có quy hoạch xây dựng được duyệt; các công trình sửa chữa, cải tạo, lắp đặt thiết bị bên trong không làm thay đổi kiến trúc, kết cấu chịu lực và an toàn của công trình.

    Như vậy, trên cơ sở điều luật đã quy định, ngoài các công trình không buộc phải xin phép xây dựng nêu trên, còn lại các công trình khác đều phải xin cấp phép xây dựng.

    Cổng sắt cũng là công trình xây dựng theo quy định của Luật xây dựng nên cũng phải tuân thủ quy định về cấp phép. Gia đình bạn xây dựng, lặp đặt cổng sắt của gia đình bạn trên ngõ đi đang sử dụng chung chưa có GCN QSD đất trong khu vực đã có quy hoạch xây dựng được phê duyệt là vi phạm Luật xây dựng và bị xử lý đình chỉ thi công và buộc tháo dỡ là có căn cứ. Tuy nhiên, nếu thủ tục xử lý không tuân thủ quy định tại Nghị định 180/2007/NQĐ-CP và Quyết định số 89/2007/QĐ-TTg thì gia đình bạn có thể khiếu kiện theo quy định pháp luật.

    Để giải quyết triệt để sự việc trên, gia đình bạn cần giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất với các gia đình hàng xóm đó theo quy định của luật đất đai.

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 09:55:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì anh bạn sẽ bị khởi tố theo quy định tại khoản 2, Điều 202 Bộ luật hình sự về tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, hình phạt được quy định như sau:

    "Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm."

    Việc quyết định hình phạt được quy định như sau:

    "Điều 45. Căn cứ quyết định hình phạt

    Khi quyết định hình phạt, Toà án căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.".

    Như vậy, hình phạt cụ thể của anh bạn sẽ phụ thuộc vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của anh bạn và nhân thân của anh bạn.

     Người giao xe cho anh bạn điều khiển cũng sẽ bị khởi tố theo quy định tại Điều 205 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 205. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm.

    2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

    Ngoài ra, anh trai bạn còn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình nạn nhân theo quy định của BLDS và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 09:41:00 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Điều 15 BLHS quy định:

    "Phòng vệ chính đáng

    1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự."

    Theo thông tin bạn nêu "..bạn tôi ( tên hùng ) có lời qua tiếng lại với bọn nó , thế rồi cả 6 người thanh niên đó nhảy vào đánh bạn tôi , lúc đó do hoảng sợ nên tôi chẳng nói được gì , do thấy hùng bị đánh nhiều quá nên giang ( 1 trong 2 người bạn tôi ) đã dùng cây đao để trong cốp xe máy chém 1 trong 6 người thanh niên đó , do tình hình lúc đó trời tối lai thêm hỗn loạn , bạn tôi tai hông tự chủ được hành động của mình nên nhát đao đó của bạn tôi ( giang ) đã chém chết 1 thanh niên...". Như vậy, theo thông tin bạn nêu thì hành vi của Giang không thể là phòng vệ chính đáng theo quy định tại ĐIều 15 BLHS được. Việc chống trả như vậy là "quá mức cần thiế".

    Nếu trong quá trình giải quyết mà chứng minh được hành vi cướp tài sản của nhóm 6 người kia và tính mạng của Hùng bị uy hiếp...thì Giang có thể bị xử về tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo quy định tại Điều 96 BLHS. Nếu không chứng minh được hành vi cướp tài sản, tính mạng, sức khỏe của các bạn bị đe dọa xâm hại nghiêm trọng thì Giang sẽ bị khởi tố về tội Giết người theo quy định tại Điều 93 BLHS.

    Bạn là người mang theo hung khí (thậm chí có thể đưa cho Giang để chém người) nên nhiều khả năng bạn cũng sẽ phạm tội như Giang. Những người còn lại cũng sẽ bị khởi tố về tội Gây rối trật tự công cộng theo quy định tại Điều 245 BLHS.

    Trước khi sự việc được làm sáng tỏ thì bạn nên mời luật sư tham gia vụ án trên để đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho bạn theo quy định pháp luật. Bạn có thể tham khảo một số quy định pháp luật sau đây:

    "Điều 93. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết người thuê;

    n) Có tính chất côn đồ;

    o) Có tổ chức;

    p) Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 96. Tội giết người do vựơt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

    1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Giết nhiều người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm.

    Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng

    1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;

    b) Có tổ chức;

    c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;

    d) Xúi giục người khác gây rối;

    đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;

    e) Tái phạm nguy hiểm.".

  • Xem thêm     

    08/09/2012, 09:16:22 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. TRANH CHẤP NGÕ ĐI CHUNG

    Vụ việc của gia đình bạn là tranh chấp đất đai giữa gia đình bạn với các gia đình hàng xóm. Để giải quyết vụ việc đó thì gia đình bạn phải gửi đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai (ngõ đi) tới UBND cấp xã nơi có đất để tổ chức hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai. Nếu hòa giải không thành thì bạn có thể gửi đơn tới Tòa án hoặc chủ tịch UBND cấp huyện theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai.

    2. XÂY DỰNG

    Nếu các gia đình trong ngõ tự ý xây tường, cản trở gia đình bạn sử dụng ngõ đi chung thì gia đình bạn có thể gửi đơn tới thanh tra xây dựng xã, huyện để xử lý công trình xây dựng đó theo quy định pháp luật.