Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

16 Trang <123456>»
  • Xem thêm     

    13/01/2023, 08:58:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ Luật giao dịch điện tử 2005, Hợp đồng điện tử có thể hiểu: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu.” Bản chất của các hợp đồng cung cấp dịch vụ là thông điệp dữ liệu. Thông điệp dữ liệu được hiểu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử (Khoản 12 Điều 4).

    Căn cứ theo khoản 1 Điều 23 Luật giao dịch điện tử 2005:

    “1. Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, các bên tham gia giao dịch điện tử có quyền thỏa thuận:

    a) Sử dụng hoặc không sử dụng chữ ký điện tử để ký thông điệp dữ liệu trong quá trình giao dịch;

    b) Sử dụng hoặc không sử dụng chữ ký điện tử có chứng thực;

    c) Lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử trong trường hợp thỏa thuận sử dụng chữ ký điện tử có chứng thực.”

    Dựa trên điểm a ở trên, 2 bên tham gia giao kết hợp đồng được tự do thỏa thuận dùng chữ ký điện tử. Trong trường hợp mọt bên không sử dụng chữ ký điện tử mà vẫn muốn giao kết hợp đồng điện tử thì vẫn có hiệu lực.

    Tùy theo thỏa thuận giao kết của các bên mà hợp đồng điện tử có hoặc không cần có chữ ký điện tử của người mua mà hợp đồng điện tử vẫn đảm bảo đầy đủ tính pháp lý.

    Hơn nữa theo khoản 2 Điều 36 có nêu rõ: “Trong giao kết hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận giao kết hợp đồng có thể được thực hiện thông qua thông điệp dữ liệu.” Nếu một bên điền vào mục chấp nhận trên điều khoản mà của một bên đề cập chính là thông qua thông điệp dữ liệu. Trong trường hợp này, hợp đồng không có chữ ký điện tử vẫn có hiệu lực.

  • Xem thêm     

    15/12/2022, 06:29:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, gia đình bạn bị nhà kế bên bắt nạt. Nhiều lần họ qua kiếm chuyện, bạn có báo công an phường nhưng hầu như công an không giải quyết gì. Nên càng ngày họ càng lộng hành.

    Chồng bạn ở nhà một mình thì hàng xóm cho người mang dao qua kéo chồng bạn ra ngoài chém và hăm dọa sẽ giết cả nhà. Chồng bạn bị vết chém vào tay đến giờ vẫn còn sẹo. Camera an ninh có ghi lại toàn bộ sự việc diễn ra. Và suốt 1 năm qua vợ chồng bạn đã nhịn nhưng càng ngày họ càng quá đáng như thể không ai làm gì được họ.

    Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm tiến hành điều tra, xác minh vụ việc khi có đơn tố giác trong thời gian 20 ngày kể từ ngày nhận được tố  giác và ra một trong các quyết định  như sau:

    “Điều 147. Thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

    1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

    a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

    b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

    c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố...”

    Nếu như qua việc xác minh phát hiện người hàng xóm có đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc các tội có hành vi tương ứng thì cơ quan điều tra sẽ ra Quyết định khởi tố vụ án.

    Thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự được xác định, cụ thể như sau:

    - 05 năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến ba năm).

    - 10 năm đối với các tội phạm nghiêm trọng (các tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm đến 07 năm tù)…….

    Như vậy, thời hạn mà bạn nêu trên thì vụ việc vẫn còn thời hiệu để truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tùy vào tính chất, mức độ vi phạm mà người thực hiện hành vi đánh chồng bạn có thể bị xử lý vi phạm hành chính. Theo Điều 7 Nghị định 144/2021/NĐ-CP, hành vi đánh nhau, lôi kéo đánh nhau gây rối trật tự công cộng, tùy tình tiết vụ việc sẽ áp dụng các mức phạt như sau:

    – Phạt từ 1 triệu – 2 triệu đồng đối với hành vi tổ chức, tham gia tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng (điểm b khoản 2 Điều 7);

    – Phạt từ 2 triệu – 3 triệu đồng đối với hành vi tổ chức, thuê, xúi giục, lôi kéo, dụ dỗ, kích động người khác cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác hoặc xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người khác nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự (điểm b khoản 3 Điều 7);

    Nếu không có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì người hành hung chồng bạn sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định ở trên.

  • Xem thêm     

    01/12/2022, 04:44:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Đầu tiên cần phân biệt tội “Giết người” và “Cố ý gây thương tích”.

    - Điểm giống nhau giữa cả hai tội này đều có những điểm giống nhau là xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người khác.

    - Điểm khác nhau cơ bản và quan trọng nhất để phân biệt tội "Giết người" và "Cố ý gây thương tích" ở mục đích phạm tội và lỗi của người thực hiện hành vi phạm tội, ngoài ra còn một số yếu tố khác:

    - Mục đích của hành vi phạm tội:

    Tội "Giết người": Người phạm tội thực hiện hành vi nhằm mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân.

    Tội "Cố ý gây thương tích" hoặc "Cố ý gây thương dẫn đến chết người": Người phạm tội thực hiện hành vi chỉ nhằm mục đích gây tổn hại đến thân thể nạn nhân. Việc nạn nhân chết nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội.

    - Xác định mức độ, cường độ tấn công

    Tội "Giết người": Mức độ tấn công nhanh và liên tục với cường độ tấn công mạnh có thể gây chết người.

    Tội "Cố ý gây thương tích": Mức độ tấn công yếu hơn và không liên tục dồn dập với cường độ tấn công nhẹ hơn.

    - Vị trí tác động trên cơ thể:

    Tội "Giết người": Thường là những vị trí trọng yếu trên cơ thế như vùng đầu, ngực, bụng,…

    Tội "Cố ý gây thương tích": Thường là những vị trí không gây nguy hiểm chết người như vùng vai, tay, chân,...

    - Vũ khí, hung khí sử dụng và các tác nhân khác:

    Xác định hung khí, vũ khí sử dụng hoặc các tác nhân khác: Việc xác định vũ khí, hung khí tấn công như súng, dao, gậy… cũng là yếu tố quan trọng nhằm phân biệt hai tội này.

    -  Yếu tố lỗi:

    Tội "Giết người": Người thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Trong trường hợp một người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ hành vi của mình là có tính nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra thì được xác định là lỗi cố ý gián tiếp.

    Tội "Cố ý gây thương tích": Người thực hiện hành vi thấy trước hành vi của mình có thể gây thương tích cho người khác nhưng vẫn mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả đó xảy ra.

    Nếu "Cố ý gây thương tích" dẫn đến chết người thì người thực hiện hành vi thấy trước hành vi của mình có thể có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Ở đây người phạm tội chỉ có ý thức và mong muốn hoặc để mặc cho hậu quả thương tích chứ không phải hậu quả chết người. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    Như vậy, trong trường hợp phạm tội "Cố ý gây thương tích", người phạm tội chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu quả gây thương tích xảy ra. Còn trường hợp phạm tội "Giết người" là người phạm tội mong muốn hậu quả xảy ra, hậu quả chết người không xảy ra là ngoài ý muốn của họ (giết người chưa đạt).

    Trường hợp người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có khả năng làm chết người mà vẫn có ý thức bỏ mặc cho hậu quả xảy ra muốn sao cũng được, nếu hậu quả là gây thương tích thì định tội "Cố ý gây thương tích", nếu hậu quả là chết người thì người phạm tội phạm vào tội "Giết người".

    Để có cái nhìn rõ hơn về sự khác nhau giữa hai tội danh này, bạn đưa ra tình huống pháp lý mà trên thực tiễn còn nhiều quan điểm khác nhau khi xác định tội danh: 1 người giết chết 1 người và làm người khác bị thương tích 45% trong cùng 1 vụ án thì phải chịu hai tội danh là Giết người và Cố ý gây thương tích.

  • Xem thêm     

    17/10/2022, 09:20:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật Hình sự được quy định tại Khoản 1 Điều 51 là dấu hiệu định tội hoặc định khung trong đó có trường hợp "Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

    Có thể hiểu một cách nôm na vắn tắt, tình tiết định tội là tình tiết mà trong cấu thành tội phạm đó bắt buộc phải có, nếu không có tình tiết đó thì sẽ không phạm tội đó. Ví dụ: Tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 51 c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; Đây chính là tình tiết định tội của tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng quy định tại Điều 126 Bộ Luật này. Nếu không có tình tiết vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì người thực hiện hành vi phạm tội sẽ không phạm tội này mà là phạm vào một tội khác (như Tội giết người chẳng hạn).

    Khi đã thỏa mãn dấu hiệu cấu thành một tội phạm (phạm tội gì) thì việc tiếp theo là xác định mức phạt cụ thể đối với tội đó là bao nhiêu, khi này khái niệm khung hình phạt bắt đầu được xem xét đến. Thông thường một Điều luật sẽ có 1 hoặc nhiều khung hình phạt và sắp xếp theo hướng khung hình phạt sau cao hơn khung hình phạt trước (thường Khoản 2, 3, 4…trở đi mức phạt sẽ cao hơn Khoản 1) cá biệt có một số Điều luật được thiết kế theo hướng ngược lại (ví dụ như Điều 123 Tội giết người Khoản 1 khung hình phạt là cao nhất – tử hình, nhưng Khoản 2 mức tối đa chỉ 15 năm).

    Tùy từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội sẽ thuộc vào một khung nhất định. Khi đã thuộc vào một khung nào đó thì sẽ xem xét đến ý nghĩa của những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ. Nếu một tội phạm được thực hiện mà không có bất kỳ tình tiết tăng nặng hay giảm nhe nào thì mức án được tuyên sẽ là khoảng giữa của khung. Ví dụ: Khung hình phạt áp dụng là từ 03 năm đến 07 năm tù giam thì mức án sẽ là 05 năm tù giam ((03 + 07)/2 = 05). Nếu có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể xuống dưới mức 05 năm nhưng không được thấp hơn 03 năm. Trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng thì mức phạt được tuyên có thể nhiều hơn 05 năm nhưng tối đa không quá 07 năm.

    Như vậy có thể thấy tình tiết giảm nhẹ chỉ có giá trị sau khi đã xác định người phạm tội phạm tội nào và khung hình phạt là bao nhiêu để tuyên mức phạt dưới mức trung bình của khung. Do đó khi tình tiết giảm nhẹ nào đó đã được dùng để định tội (khá phổ biến) và dùng để định khung (rất hiếm gặp – nhưng nhà làm luật vẫn quy định phòng hờ) thì sẽ không áp dụng để xem xét định lượng hình phạt nữa vì như vậy 1 tình tiết giảm nhẹ lại áp dụng đến 02 lần. Trở lại với ví dụ phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì đó đã là tình tiết định tội tại Điều 126 rồi, không thể khi quyết định hình phạt lại nêu thêm 1 tình tiết giảm nhẹ là do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 1 lần nữa.

  • Xem thêm     

    28/09/2022, 09:03:54 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp thì em có xô xát đánh nhau với ông hàng xóm nhưng ông hàng xóm lại bị tỉ lệ thương tích với 21%. Theo Điều 134 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

     “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

     a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn gây nguy hại cho từ 02 người trở lên;

    b) Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

    c) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    d) Phạm tội 02 lần trở lên;

    đ) Phạm tội đối với 02 người trở lên;

    e) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    g) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng mình, thầy giáo, cô giáo của mình;

    h) Có tổ chức;

    i) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    k) Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    l) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe do được thuê;

    m) Có tính chất côn đồ;

    n) Tái phạm nguy hiểm;

    o) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n và o khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm.

    ……….”

    Nếu người hàng xóm bị tỷ lệ thương tật 21% thì hành vi đánh người của em bạn đã đủ căn cứ cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định trên. Do đó, tùy thuộc vào mức độ nguy hiểm do hành vi cố ý gây thương tích của em bạn với người hàng xóm kia và tỷ lệ thương tật của người đó thì em bạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự với mức phạt tương đương. Đồng thời theo Điều 32 Bộ luật hình sự thì ngoài hình phạt chính theo quy định tại Điều 134 nêu trên, em bạn có thể phải chịu hình phạt bổ sung như phạt tiền, quản chế,…

    Tuy nhiên, nếu tỷ lệ thương tật của nạn nhân chỉ dừng lại ở khoản 1 điều này ( từ 11% đến 30%) thì hành vi của em bạn chỉ bị khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại theo quy định tại Điều 155 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Vì vậy, trong trường hợp này các bạn nên đến thỏa thuận, thương lượng với người bị hại, nếu như bên bị hại không yêu cầu khởi tố thì ba bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    04/09/2021, 10:54:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Khoản 1 Điều 146 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác”.

    Trong Bộ luật hình sự năm 2015 đã bổ sung dấu hiệu “không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác” là dấu hiệu cụ thể hóa hành vi khách quan của tội dâm ô đối với trẻ em, đồng thời phân biệt hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi đối với các hành vi khách quan của các tội phạm về tình dục khác được quy định. Về bản chất thì dấu hiệu này không phải là dấu hiệu mô tả hành vi khách quan của tội phạm mà đây là dấu hiệu để nhà làm luật phân biệt hành vi khách quan của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi và với một số hành vi liền trước hành vi “giao cấu hoặc hành vi quan hệ tình dục khác” ở trong tội phạm khác. Cụ thể, tại khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn về hành vi dâm ô người dưới 16 tuổi như sau:

    Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục.

    Như vậy, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà người từ đủ 18 tuổi trở lên phạm tội dâm ô người dưới 16 tuổi khi thực hiện một trong các hành vi dâm ô trẻ em như trên có thể bị phạt tù đến 12 năm. Tuy nhiên, chủ thể của tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi là chủ thể đặc biệt. Theo đó bạn là người dưới 18 tuổi sẽ không phải chịu trách nhiệm về hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổitheo điều luật đã được viện dẫn ở trên.

  • Xem thêm     

    15/08/2021, 09:23:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Tùy tính chất, mức độ, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    Truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Luật hình sự 2015 quy định, Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại....

    Về xử phạt hành chính, Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định, người có hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị phạt tiền từ 1-2 triệu đồng.

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Khi bạn phát hiện níck facebook bị hách và có dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó và không biết người đó là ai, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở nội dung tin nhắn qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook.

  • Xem thêm     

    31/07/2021, 12:33:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định: Hành vi đánh bạc trái phép là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

    Nếu người bạn đó đã biết hành vi đánh bạc là sai trái mà cho số chủ đề số lô số đề trong việc ghi,nhận lô đề nên người đó có thể bi coi là hành vi vi phạm đánh bạc đánh bạc trái phép với vai trò đồng phạm..

    Người bạn cho số lô đề để người đánh đi đánh số lô đề đó là hành vi vi phạm, bên cạnh đó còn xuất hiện mục đích được thua bằng tiền nên ở đây có thể bị coi là hành vi đánh bạc trái phép, và người bạn đó có thể là người tổ chức đánh bạc trái phép.

    Như vậy, tùy từng hành vi của người bạn của bạn, có thể phải chịu trách nhiệm hình sự tội tổ chức đánh bạc hoặc Tội đánh bạc theo quy định Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Nếu không đủ căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với anh trai bạn thì anh trai bạn sẽ bị xử phạt hành chính đối với hành vi đánh bạc trái phép theo quy định tại Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ-CP.

  • Xem thêm     

    19/07/2021, 10:25:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận, facebook là mạng xã hội được thiết lập nhằm mục đích vui chơi giải trí hơn là mục đích tuyên truyền.Trong trường hợp nói xấu, đưa thông tin những điều không tốt về đồng nghiệp bạn bè trên trang cá nhân nhưng đó là những điều đúng sự thật thì không bị vi phạm. Tuy nhiên, những hành động như bóc phốt, nói xấu,.. mà sai sự thật thì những hành vi như trên có thể bị xử lý vì vi phạm pháp luật

    Theo quy định của pháp luật hiện hành, hành vi nói xấu người khác trên Facebook có thể xử lý vi phạm hành chính, chịu trách nhiệm dân sự, thậm chí truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Về xử lý hành chính:

    Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử thì cá nhân có hành vi “cung cấp, chia sẽ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của cá nhân khác” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

    Về trách nhiệm dân sự:

    Đối với hành vi gây thiệt hại về danh dự, nhân phẩm, uy tín cá nhân, tổ chức khác, người vi phạm phải bồi thường chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị thiệt hại phải gánh chịu theo quy định tại Điều 592 Bộ luật dân sự 2015.

    Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định

    Ngoài ra, người bị thiệt hại còn có quyền buộc người vi phạm xin lỗi, cải chính công khai theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Bộ luật dân sự 2015.

    Về xử lý hình sự:

    Ngoài việc chịu trách nhiệm hành chính và dân sự, những hành vi mang tính chất nghiêm trọng sẽ bị truy tố trách nhiệm hình sự. Cụ thể như sau:

    Hành vi sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể bị xử lý hình sự với Tội làm nhục người khác theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.

    Điều 155 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tội làm nhục người khác: “Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

    …”

    Tuy nhiên, chúng ta cũng phải xem xét về nội dung, mức độ, mục đích của bình luận đó có gây hoặc khả năng gây ra hậu quả nghiêm trọng tiêu cực đến người bị xúc phạm, nói xấu hay không?

    Vì vậy, việc bạn cần làm để tự bảo vệ mình:

    - Thu thập toàn bộ chứng cứ liên quan đến việc hàng xóm có xúc phạm bạn qua facebook

    - Gửi đơn tố cáo tới cơ quan công an để được nhờ sự giúp đỡ.

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:55:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Không vấn đề gì, cám ơn bạn đã tham khảo

  • Xem thêm     

    05/07/2021, 04:54:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Không vấn đề gì

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 04:28:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp bạn nêu là biện pháp phong tỏa tài khoản được cơ quan điều tra áp dụng. Phong tỏa tài khoản được áp dụng đối với tài khoản của cá nhân, tổ chức có căn cứ xác định số tiền trong tài khoản đó liên quan đến hành vi phạm tội.

    Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 12 Văn bản hợp nhất số 10/VBHN-NHNN hợp nhất Nghị định về thanh toán không dùng tiền mặt có quy định các trường hợp tạm khóa và phong tỏa tài khoản thanh toán như sau:

    “3. Việc chấm dứt phong tỏa tài khoản thanh toán được thực hiện khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc các tranh chấp theo quy định tại khoản 2 Điều này đã được giải quyết.”

    Theo đó, thẩm quyền hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài sản của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra; của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS trong giai đoạn truy tố; của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án hình sự

    Biện pháp phong tỏa tài khoản được hủy bỏ khi có căn cứ: Đình chỉ điều tra, tạm đình chỉ vụ án; đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án đối với pháp nhân được Tòa án tuyên không phạm tội; pháp nhân phạm tội không bị phạt tiền, tịch thu tài sản và bồi thường thiệt hại;

    Trong trường hợp của bạn phải được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án thấy không còn cần thiết tiếp tục phong tỏa tài khoản nữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản khi thấy không còn cần thiết.

    Nếu muốn hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản, bạn phải có đơn gửi Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án trình bày nguyện vọng và chứng minh là người quản lý hợp pháp tài khoản, các gia dịch là hợp pháp. Nếu xét thấy việc hủy bỏ biện pháp phong tỏa tài khoản không làm ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án thì sẽ được Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án hủy bỏ biện pháp này.

  • Xem thêm     

    25/06/2021, 03:58:35 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Đối với việc bắt anh bạn thực hiện những hành vi mà anh không thực hiện trước khi bị đánh gục, dựng hiện trường với nội dung ép buộc người bị hại thực hiện hành vi mà bị hại không làm. Trong trường hợp này, nếu hành vi đóxâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của anh bạn thì anh bạn có quyền khiếu nại sự việc này đến cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào Điều 34, 35, 36 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015.

    Để cơ quan công an mời anh bạn lên làm việc thì bạn nên viết đơn gửi khiếu nại lên Thủ trưởng công an và Viện trưởng của Viện kiểm sát cùng cấp . Trong đơn anh bạn phải ghi rõ nội dung vụ việc, những quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, đề nghị với cơ quan Công an và Viện kiểm sát cần sớm đưa vụ án ra để giải quyết nhằm kịp thời đảm bảo quyền và những lợi ích hợp pháp của anh bạn.

    Khi giải quyết đơn thì thủ trưởng cơ quan điều tra sẽ có chỉ đạo để điều tra viên tiến hành mời anh bạn lên cơ quan công an giải quyết. Nếu như vấn không có kết quả thì anh bạn có thể gửi đơn lên cơ quan công an cấp trên qua đường bưu điện.Hoặc biện pháp mà nhiều người cũng thường sử dụng đề tìm kiếm sự quan tâm cho vụ việc gia đình bạn là Báo chí.

  • Xem thêm     

    09/06/2021, 11:08:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;

    đ) Có tổ chức;

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;

    i) Có tính chất côn đồ;

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân...

    Trường hợp tỉ lệ thương tật của anh bạn chưa đến 11%(chỉ bị bị 6%) nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 trên thì cũng đủ yếu tố để cấu thành tội phạm.

    Như vậy việc công an quyết định không khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp này là không đúng với quy định ở trên.

    Khi bạn có căn cứ cho rằng không khởi tố vụ án hình sự của cơ quan có thẩm quyền là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bạn thì bạn có quyền khiếu nại sự việc này đến cơ quan có thẩm quyền.

    Theo đó, trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, người có quyền khiếu nại được khoản 1 Điều 469, cụ thể hóa: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.

    Điều 470 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định về Các quyết đinh, hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại:

    “1. Quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định của Bộ luật này.

    2. Hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được thực hiện theo quy định của Bộ luật này.”

    Như vậy, căn cứ vào các quy định trên Bộ luật tố tụng hình sự, nếu bạn không đồng ý với quyết định không khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, và không đồng ý với kết quả giải quyết khiếu nại của Viện kiểm sát thì bạn có thể khiếu nại tiếp lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp để giải quyết.

  • Xem thêm     

    03/06/2021, 10:11:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo như tình huống bạn kể lại, bạn bị đe dọa, chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của mình trên mạng internet. Hiện nay trên các mạng xã hội như Facebook, Zalo… thấy những status có nội dung nói xấu, thóa mạ hay vu cáo nhau không phải là chuyện hiếm, kể cả nêu đích danh hoặc nói cạnh khóe xâm phạm đến danh dự nhân phẩm của người khác.

    Bạn là nạn nhân bị bêu xấu trên mạng cần phải làm các bước sau:

    - Trước hết bạn cần thu thập bằng chứng thông qua việc yêu cầu Văn phòng thừa phát lại lập vi bằng những status hoặc bình luận có nội dung được cho rằng xúc phạm, gây ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của mình. “Việc lập vi bằng cần phải thực hiện ngay sau khi phát hiện có hành vi xâm phạm, vì nếu để lâu, những thông tin đó có thể bị gỡ bỏ, xóa dấu vết

    - Trường hợp có địa chỉ của người bêu xấu, người bị xúc phạm có thể gửi thư hoặc văn bản yêu cầu gỡ ngay các status hoặc bình luận không đúng sự thật.

    Nếu yêu cầu của bạn không được thực hiện nên làm đơn tố cáo gửi cơ quan công an. Theo quy định, trong thời hạn 20 ngày hoặc chậm nhất là 2 tháng, cơ quan công an phải có văn bản trả lời. Nếu kết luận của cơ quan công an xác định hành vi của người đưa thông tin lên mạng xã hội là bịa đặt thì tùy mức độ vi phạm, thiệt hại xảy ra để xử lý trách nhiệm hình sự, xử phạt hành chính người đưa thông tin.

    Nếu kết luận của cơ quan công an xác minh thông tin trên mạng xã hội là đúng, nhưng rơi vào trường hợp thuộc bí mật đời tư thì người bị xúc phạm vẫn có thể khởi kiện dân sự đòi bồi thường, buộc xin lỗi vì bị xâm phạm bí mật đời tư

    Tuy nhiên, có một thực tế là không ít trường hợp những kẻ nói xấu không dùng trang cá nhân, hay danh tính thật, mà lập một trang ảo để nói xấu, bôi nhọ người khác. Do đó, cơ quan chức năng giải quyết tin báo, tố giác tội phạm không dựa vào tên trên mạng để xác minh hành vi vi phạm, mà có nhiều biện pháp nghiệp vụ khác. Vì vậy, dù người vi phạm có sử dụng nick ảo hoặc tên người khác để che giấu thì vẫn có thể bị phát hiện, xử lý

  • Xem thêm     

    25/04/2021, 09:24:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Điều 92 Luật xử lý vi phạm hành chính quy định về đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng :

    “Điều 92. Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng

    1. Người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự.

    2. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý quy định tại Bộ luật hình sự.

    3. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện hành vi có dấu hiệu của một tội phạm nghiêm trọng do cố ý quy định tại Bộ luật hình sự mà trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

    4. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi 02 lần trở lên trong 06 tháng thực hiện hành vi trộm cắp, lừa đảo, đánh bạc, gây rối trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và trước đó đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.

    5. Không áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đối với các trường hợp sau đây:

    a) Người không có năng lực trách nhiệm hành chính;

    b) Người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;

    c) Phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.”

    Như vậy, trường hợp của bạn, em trai bạn mới 14 tuổi và đã có hành vi trộm cắp tài sản. theo như thông tin bạn đưa ra thì chúng tôi nhận thấy em trai bạn vi phạm vào khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự: “Điều 138*. Tội trộm cắp tài sản

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    ...............”

    Đây là trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng và đối với người đủ 14 tuổi thì không áp dụng đưa vào trường giáo dưỡng. Gia đình có lẽ cần kiên nhẫn dạy bảo em, hoặc có nhưng biện pháp cứng rắn hơn tại gia đình.

  • Xem thêm     

    20/04/2021, 10:02:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 về hợp đồng vay tài sản, theo đó, bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

    Trong hợp đồng vay tài sản tồn tại hai chủ thể của hợp đồng, đó là bên vay và bên cho vay, khi đến thời hạn trả lại tài sản mà các bên đã thỏa thuận thì bên vay có trách nhiệm trả tiền cho bên cho vay.

    Trường hợp bạn không trả tiền vay, chủ nợ có quyền khởi kiện ra tòa án. Nếu bạn có điều kiện trả nhưng cố tình trây ỳ hoặc có hành động bỏ trốn, chủ nợ có quyền làm đơn trình báo, yêu cầu cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự về tội Lợi dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Khi bị chủ nợ uy hiếp, tấn công hoặc xiết nợ (cưỡng đoạt tài sản), bạn cần trình báo ngay cơ quan công an nơi gần nhất; đặc biệt hạn chế có lời nói, cử chỉ mang tính kích động.

    Nếu người đòi nợ đến gây mất trật tự trị an, tấn công, làm nhục, hủy hoại tài sản hoặc lấy tài sản mang đi, con nợ có quyền làm đơn trình báo tới cơ quan công an để xem xét trách nhiệm hình sự họ về các tội danh tương ứng: Gây rối trật tự công cộng, Cố ý gây thương tíchLàm nhục người khácHủy hoại tài sản hoặc Cưỡng đoạt tài sản.

  • Xem thêm     

    14/04/2021, 10:04:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo nguyên tắc, người có thẩm quyền xử lý hành vi vi phạm có trách nhiệm chứng minh vi phạm. Cá nhân, tổ chức bị xử lý có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp chứng minh mình không vi phạm.

    Trường hợp của bạn có thể yêu cầu được đưa ra bằng chứng chứng minh về hành vi vi phạm thì phải cho bạn biết ngay nếu đã có hình ảnh, người làm chứng biết rõ sự việc tại đó. Nếu nhà trường không chứng minh được hành vi vi phạm thì không có quyền xử lý lỗi vi phạm đó. Nếu không chứng minh được hành vi vi phạm của bạn mà cố tình xử lý thì bạn có quyền khiếu nại nhà trường.

  • Xem thêm     

    14/04/2021, 09:34:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Bộ luật hình sự 2015 có quy định thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    - 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

    - 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

    - 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

    - 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn kể trên, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

    Nhưng nếu trong thời hạn kể trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

    Như vậy, căn cứ quy định được trích dẫn trên đây thì có thể thấy việc truy nã đối với người phạm tội sẽ được thực hiện từ lúc có quyết định truy nã người phạm tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho đến lúc người bị truy nã đã bị bắt hoặc ra đầu thú thì việc truy nã người phạm tội sẽ chấm dứt.

    Đồng nghĩa, đối với trường hợp truy nã bị can, bị cáo trong vụ án hình sự cũng như vậy. Trường hợp của bố bạn đã có quyết định truy nã bị can, bị cáo thì chỉ khi bị can, bị cáo ra đầu thú, trình diện hoặc bị bắt giữ thì cơ quan ra quyết định truy nã mới ra quyết định đình nã, dừng việc truy nã lại.

  • Xem thêm     

    01/04/2021, 02:07:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Dựa theo thông tin bạn cung cấp cho chúng tôi, chúng tôi xin giải thích như sau: Bạn phải biết được rằng đối tượng có hành vi hack facebook bạn để lừa đảo đang đăng ký thường trú ở đâu ( đối với cá nhân) hoặc trụ sở ( đối với tổ chức).. để nộp đơn tố giác tội phạm.

    Nếu không xác minh được đối tượng đó, bạn làm đơn trình báo, bạn gửi lên phía cơ quan công an gần nhất của bạn để được hỗ trợ Hoặc bạn Liên hệ với Cục cảnh sát phòng chống tội phạm công nghệ cao để được hỗ trợ tìm kiếm thông tin.

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Khi bạn phát hiện ních facebook bị hách và có dấu hiệu lừa đảo, bạn có thể tố cáo hành vi này đến cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận, huyện, nơi người đó cư trú. Nếu không xác định được nơi cư trú của người đó và không biết người đó là ai, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi Công an quận, huyện, nơi bạn cư trú. Trong đơn tố cáo, bạn cần trình bày rõ nội dung sự việc và gửi kèm các bằng chứng chứng minh nội dung tố cáo là có cơ sở nội dung tin nhắn qua facebook, số điện thoại, địa chỉ facebook.

    Khi đó tùy tính chất, mức độ, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự hoặc xử lý hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

16 Trang <123456>»