Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

16 Trang <1234567>»
  • Xem thêm     

    04/03/2021, 10:44:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Vì bạn không nói rõ cảnh sát giao thông có khám nghiệm hiện trường hay không? Nếu có thì kết quả khám nghiệm hiện trường như thế nào? Theo kết luận điều tra thì bố bạn có vi phạm luật giao thông hay không? Tuy nhiên, với tình huống của bạn tôi có thể trao đổi với bạn như sau:

    Nếu qua quá trình điều tra, khám nghiệm hiện trường cũng như kiểm tra các chứng cứ có liên quan, cơ quan công an xác định người có có lỗi gây ra vụ việc này, cũng như có hành vi gây tai nạn giao thông hậu quả là làm chết người thì căn cứ vào quy định

    Theo quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:

    “Điều 260. Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ

    1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.

    ..."

    Như vậy, nếu hành vi gây ra thiệt hại về tính mạng của bà vợ và gây thiệt hại về sức khỏe cho người tham gia giao thông nhưng phải có kết luận của cơ quan giao thông hoặc cơ quan điều tra về việc có lỗi tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định của pháp luật thì người có lỗi mới phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 260 nêu trên. Còn nếu xác nhận lỗi hoàn toàn do bên phía người bị thiệt hại gây ra thì người gây tai nạn không phải chịu trách nhiệm hình sự, cũng như không phải bồi thường cho người bị thiệt hại theo Điều 601 Bộ luật Dân sự năm 2015.

  • Xem thêm     

    04/03/2021, 10:29:52 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Khoản 7 Điều 1 Thông tư 18/2019/TT-NHNN quy định:

    Biện pháp đôn đốc, thu hồi nợ phù hợp với đặc thù của khách hàng, quy định của pháp luật và không bao gồm biện pháp đe dọa đối với khách hàng, trong đó số lần nhắc nợ tối đa 05 (năm) lần/01 (một) ngày, hình thức nhắc nợ, thời gian nhắc nợ do các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho vay tiêu dùng nhưng phải trong khoảng thời gian từ 7 (bảy) giờ đến 21 (hai mươi mốt) giờ; không nhắc nợ, đòi nợ, gửi thông tin về việc thu hồi nợ của khách hàng đối với tổ chức, cá nhân không có nghĩa vụ trả nợ cho công ty tài chính, trừ trường hợp có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; bảo mật thông tin khách hàng theo quy định của pháp luật.

    Theo thông tin bạn cung cấp thì bạn không có quan hệ gì với người vay và cũng không vay nợc cho nên app ứng dụng vay tiền không được gọi nhắc nợ, đòi nợ hay gửi thông tin cho bạn.

    Điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định như sau:

    Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

    Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.

    Theo quy định này thì việc app ứng dụng vay tiền gọi điện quấy rối bị phạt tiền từ 10 triệu đến 20 triệu đồng. Khi app ứng dụng vay tiền gọi điện quấy rối, Bạn có thể báo doanh nghiệp viễn thông mà mình là khách hàng để được hỗ trợ hoặc gửi đơn tố cáo đến cơ quan Công an cấp huyện để xử lý hành vi của để yêu cầu giải quyết.

  • Xem thêm     

    14/02/2021, 04:13:10 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Hành vi gây tai nạn giao thông thì tùy theo tính chất và mức độ, mà người có hành vi vi phạm có thể bị xử phạt hành chính hoặc hình sự và đồng thời trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ luật Dân sự.

    Thứ nhất, xử lý về hình sự:

    Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ dụng 2017 quy định về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ như sau:

    “1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

    a) Làm chết người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

    d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.

    Theo đó, nếu bạn tham gia giao thông mà vượt quá tốc độ, không giữ khoảng cách an toàn... dẫn đến gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 61% trở lên hoặc gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì sẽ phải chịu trách nhiệm về hình sự  là phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: chủ động sửa chữa, khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng,... Việc anh tài xế xe tải bất ngờ dừng xe và băng qua đường mua nước tại nơi không có biển báo, đèn tín hiệu, vạch kẻ đường giành cho người đi bộ thì cũng phải xét đến yếu tố lỗi của anh này để xác định trách nhiệm của các bên cho hợp lí và hợp pháp. Việc xác định lỗi của các bên phải phụ thuộc vào kết luận điều tra của cơ quan công an.

    Thứ hai, bồi thường thiệt hại về dân sự.

    Trường hợp có gây ra thiệt hại về sức khỏe, ngoài phải chịu trách nhiệm hình sự thì còn phải bồi thường về dân sự theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự 2015 như sau:

    “1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.

    Theo đó, người có hành vi xâm phạm đến sức khỏe của người khác thì phải bồi thường thiệt hại trên cơ sở thiệt hại thực tế xảy ra, bồi thường do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại,... Mức bồi thường sẽ do hai bên tự thỏa thuận, trường hợp không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm là không quán năm  mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Tuy nhiên, mức bồi thường cũng phải căn cứ vào yếu tố lỗi của các bên.

    Tuy nhiên, để xác định lỗi để xảy ra tai nạn thì còn phải dựa vào quá trình thực nghiệm điều tra. Nếu đúng như bạn nói là tại thời điểm xảy ra tai nạn dừng xe sát lề đường để chỉnh túi đựng thức ăn lại thì có 1 chiếc xe đi cùng chiều tông vào đuôi xe của bạn cả 2 điều té xuống.thì lỗi dẫn đến tai nạn thuộc về bên kia. Nhưng nếu như thực nghiệm người kia  hoàn toàn có thể quan sát được xe đi đến hai bên nhưng do người kia thiếu quan sát, không giảm tốc độ khi tới thì bạn cũng có 1 phần lỗi trong vụ tai nạn (nếu bạn đỗ sai và trường hợp này xác định là lỗi hỗn hợp). Trong tai nạn giao thông lỗi của ai đến đâu thì chịu trách nhiệm đến đó. Trường hợp hỗn hợp lỗi thì hai bên đều phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả. Bên nào lỗi nhiều thì chịu trách nhiệm nhiều. Còn nếu bạn dừng xe sát lề đường để chỉnh túi đựng thức ăn mà bị xe khác tông vào đuôi xe thì lỗi hoàn toàn thuộc về người tông vào xe bạn do thiếu quan sát mà không làm chủ được tốc độ và bạn không phải bồi thường.

  • Xem thêm     

    14/02/2021, 03:50:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn là đã cho người cháu vay tiền, đồng thời có giấy vay nợ chứng minh điều đấy là thật. Nếu người cháu không thiện chí trả nợ gốc cũng như lãi suất theo thỏa thuận thì bạn có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật. Bạn có thể khởi kiện dân sự kiện đòi tài sản buộc người cháu phải có trách nhiệm trả tiền lại cho bạn đúng số lượng tiền gốc cũng như tiền lãi theo lãi suất ngân hàng nhà nước. Ở đây không nhất thiết là bạn phải giao kết thỏa thuận có chứng nhận của chính quyền mà chỉ cần thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật và đức xã hội là thỏa mãn điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận dân sự theo Bộ luật dân sự năm 2015.

    “Điều 280. Thực hiện nghĩa vụ trả tiền

    1. Nghĩa vụ trả tiền phải được thực hiện đầy đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm và phương thức đã thỏa thuận.

    2. Nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

    Từ những lời nói thể hiện ý chí của người cháu có thái độ trở mặt và muốn chối bỏ trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ thì bạn hoàn toàn có thể trình báo cơ quan công an hoặc gửi đơn yêu cầu khởi tố người cháu này tới cơ quan công an điều tra cấp huyện về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 :

    “Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

    Theo nguyên tắc giải quyết dân sự theo pháp luật của Việt Nam thì luôn khuyến khích và tôn trọng sự thỏa thuận của các bên, đồng thời không hình sự hóa các vấn đề dân sự. Vậy nên trong trường hợp này bạn có thể thỏa thuận lại với người cháu nếu không thỏa thuận được thì bạn hoàn toàn có quyền đưa sự việc ra trước pháp luật để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bạn, đồng thời pháp luật sẽ có mức hình phạt đối với người phạm tội.

  • Xem thêm     

    08/01/2021, 09:27:44 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Với hành vi giữ tiền của công ty, bạn là nhân viên nhiều khả năng có thể bị xem xét và xử lý về mặt hình sự (tội phạm) tùy vào mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm và số tiền mà bạn chiếm đoạt. Nếu bạn lấy tiền của công ty mà có nói với công ty thì ở đây công ty có thể kiện dân sự đòi nợ đối với bạn. Nếu bạn ấy không nói trước với công ty, mà khi thu tiền chiếm giữ luôn số tiền đó không trả cho công ty thì công ty có thể tố cáo ra cơ quan công an để khởi tố vụ án hình sự, cụ thể ở đây có thể là tội “Trộm cắp tài sản” (Điều 173), hoặc “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” (Điều 174), tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” (Điều 175) hoặc Tội “chiếm giữ trái phép tài sản” (Điều 176), "Tội sử dụng trái phép tài sản" (Điều 177) theo qui định tại Bộ luật hình sự 2015.

    Tuy nhiên, cụ thể định tội danh như thế nào thì trước mắt phải xem xét kỹ về nội dung, chứng cứ, tài liệu liên quan và qua sự điều tra của cơ quan chức năng.
    Việc giải quyết nội bộ giữa bạn với công ty  hay truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bạn thì tùy vào hướng giải quyết mà các bên lựa chọn.

  • Xem thêm     

    06/01/2021, 10:49:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi như sau:

    “Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

    1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:

    a) Phạm tội 02 lần trở lên;

    b) Đối với 02 người trở lên;

    c) Có tính chất loạn luân;

    d) Làm nạn nhân có thai;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

    e) Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”

    Như vậy, trong trường hợp bạn dưới 18 tuổi và có hành vi giao cấu hoặc quan hệ tình dục khác với bạn gái 14 tuổi thì không cấu thành tội phạm quy định tại Điều 145 Bộ luật hình sự năm 2015 nêu trên. Bộ luật hình sự 2015 quy định đối với hành vi một người trên 18 tuổi thực hiện hành vi với người từ 13 tuổi trở xuống. Nếu cả 2 đều dưới độ tuổi này và đồng thuận, không có các trường hợp hiếp dâm thì lỗi ở cả 2. Cả 2 lúc này chưa đủ nhận thức, tâm sinh lý vẫn chưa ổn định, ở độ tuổi này rất nhạy cảm, bồng bột, nên không thể quy tội cho 1 trong 2 đối tượng được, càng không thể xử phạt 1 trong 2. Do đó, căn cứ theo điều kiện ở trên thì bạn không bị xử lý về hành vi quan hệ tình dục với bạn gái mình vì bạn là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, bạn nên có một mối quan hệ lành mạnh, đó là mối quan hệ bạn bè, chứ không phải một mối quan hệ nào khác. Nếu bạn tiếp tục thì sang năm tới bạn sẽ thêm 1 tuổi và đủ tuổi để truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    04/01/2021, 11:47:06 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác.

    - Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các Điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS; trong đó:

    + Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù;

    + Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

    Thời điểm tính tuổi của bị can, bị cáo, bị hại trong vụ án hình sự như sau:

    - Thời điểm xác định độ tuổi của bị can, bị cáo, bị hại được tính ngay khi thực hiện hành vi phạm tội.

    - Trường hợp hành vi phạm tội kéo dài và liên tục, có nhiều hành vi được thực hiện ở các thời điểm khác nhau, khi xác định độ tuổi thực hiện hành vi phạm tội có thể gặp trường hợp có hành vi thực hiện khi chưa đủ tuổi, có hành vi thực hiện khi đã đủ tuổi thì lấy độ tuổi ở hành vi cuối để tính tuồi.

    - Trường hợp khi xác định độ tuổi của người phạm tội có tính chất liền kề thì tách các hành vi ở từng độ tuổi để xem xét và sẽ tính tuổi theo hướng có lợi hơn cho người phạm tội.

    Như vậy, con bạn từ đủ 16 tuổi được hiểu là từ ngày sinh nhật của con bạn. Thời điểm xác định độ tuổi con bạn được tính ngay khi thực hiện hành vi phạm tội của con bạn.

  • Xem thêm     

    01/01/2021, 09:47:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Không vấn đề gì

  • Xem thêm     

    24/12/2020, 11:20:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Nếu đó là tình trạng yêu đương của các bạn mà không có yếu tố dụ dỗ,... lợi dụng thì cả hai gia đình cần ngồi lại, giáo dục, nói chuyện với cả các bạn về hành vi này. Hiện tại, thực tế cho thấy các bạn trẻ bây giờ biết yêu rất sớm, nhiều khi xảy ra nhiều hậu quả nên yếu tố giáo dục trong gia đình rất quan trọng

  • Xem thêm     

    23/12/2020, 11:30:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Điều 146 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi

    “1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà có hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi không nhằm mục đích giao cấu hoặc không nhằm thực hiện các hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    …”

    Tại Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao có hiệu lực. Trong nghị quyết ghi rõ: Dâm ô quy định tại khoản 1 Điều 146 của Bộ luật Hình sự là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục,

    Theo Bộ luật hình sự 2015 quy định và nghị quyết ở trên thì đều quy định đối với hành vi một người trên 18 tuổi thực hiện hành vi với người từ 16 tuổi trở xuống. Nếu cả 2 đều dưới 16 và đồng thuận, không có các trường hợp hiếp dâm thì lỗi ở cả 2. Cả 2 lúc này chưa đủ nhận thức, tâm sinh lý vẫn chưa ổn định, ở độ tuổi này rất nhạy cảm, bồng bột, nên không thể quy tội cho 1 trong 2 đối tượng được, càng không thể xử phạt 1 trong 2

    Như vậy, căn cứ theo điều kiện ở trên thì bạn không bị xử lý về hành vi hôn bạn gái mình vì bạn là người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, bạn nên có một mối quan hệ lành mạnh, đó là mối quan hệ bạn bè, chứ không phải một mối quan hệ nào khác. Chỉ nên có một mối quan hệ là tình bạn, không thể vượt quá tình bạn nhé.

  • Xem thêm     

    19/12/2020, 03:55:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Pháp luật nghiêm cấm hành vi lừa dối hoặc gây nhầm lẫn cho người sử dụng hoặc người chơi trò chơi hoặc tổ chức kinh doanh Game đó đã vi phạm điều khoản và điều lệ của game. Theo đó, bạn có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình theo quy định của pháp luật có liên quan.

    Như vậy, khi bạn chơi mà có sự nhầm lẫn hoặc bị xâm phạm quyền lợi của mình do lỗi của bên có trò chơi game thì bạn khiếu nại có quyền khởi kiện, yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với tổ chức, cá nhân có Game đó. Tùy theo tính chất, mức độ thiệt hại, bên bị khiếu nại, tố cáo, khởi kiện sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Để có căn cứ xử lý, khi chơi hoặc chuyển khoản nên giữ nguyên hiện trạng và các chứng cứ liên quan để có thể liên hệ người quản lý game cho mình yêu cầu hoàn trả tiền hoặc bồi thường. Nếu phát sinh tranh chấp, bạn cần làm đơn tố cáo kèm chứng cứ liên quan đó cho cơ quan quản lý hoặc cơ quan công an nơi gần nhất để yêu cầu xử lý.

    Theo quy định, trong trường hợp bạn nêu, nếu người chơi thắng sẽ được thưởng điểm và có thể  được đổi ra tiền. Nếu đổi ra tiền là mang tính chất thắng thua cờ bạc có dấu hiệu của tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc. Do đó, nếu bạn chơi với số tiền lớn thì có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc, nếu số tiền ít sẽ bị xử lý hành chính theo quy định.

  • Xem thêm     

    18/12/2020, 09:13:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Tại Khoản 3 Điều 4 Thông tư 148/2018/TT-BQP quy định về tiêu chuẩn tuyển quân có quy định:

    - Tiêu chuẩn sức khoẻ:

    + Tuyển chọn những công dân có sức khỏe loại 1, 2, 3 theo quy định của Bộ Y tế, Bộ Quốc phòng về tiêu chuẩn sức khoẻ thực hiện nghĩa vụ quân sự.

    + Đối với các đơn vị quy định tại Điểm b, Khoản 2 Điều này, thực hiện tuyển chọn bảo đảm các tiêu chuẩn riêng theo quy định của Bộ Quốc phòng.

    + Không gọi nhập ngũ vào Quân đội những công dân có sức khỏe loại 3 có tật khúc xạ về mắt (cận thị 1,5 điop trở lên, viễn thị các mức độ); nghiện ma túy, nhiễm HIV, AIDS.

    Như vậy, theo quy định trên thì nếu trường hợp khi khám sức khỏe nghĩa vụ quân sự mà có kết luận dương tính với ma túy đến mức đã nghiện ma túy thì sẽ thuộc diện không gọi nhập ngũ.

  • Xem thêm     

    16/12/2020, 09:55:30 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp có thể thấy anh A đã đủ các yếu tố cấu thành tội đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

    “1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm…”

    Theo quy định tại Điều 144 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố giác. Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.

    Như vậy, bạn có thể gửi đơn tố giác về hành vi phạm tội của người bạn kia đến các cơ quan quy định tại Điều 144 Bộ luật tố tụng hình sự 2015, sau đó, các cơ quan chức năng sẽ có nhiệm vụ điều tra, truy tố, khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại Điều 145 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

    tùy vào dấu hiệu hành vi và mức độ nguy hiểm của hành vi mà bố của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đe dọa giết người hoặc tội hành hạ người khác.

    Như vậy, bạn có thể làm đơn tố giác anh A về tội đe dọa giết người, mọi thủ tục tiếp theo các cơ quan chức năng sẽ có nhiệm vụ điểu tra, xác minh vụ việc, trong đơn tố giác bạn trình bày các hành vi đe dọa như trình bày ở trên một cách đầy đủ, căn cứ vào quy định pháp luật như trên, rõ ràng, không sai sự thật, có bằng chứng để chứng minh khi cần. Bạn có thể viết đơn tố cáo hành vi của anh A với cơ quan chức năng như  và nộp đơn đến cơ quan công an tại địa phương mình để yêu cầu giải quyết.

  • Xem thêm     

    02/12/2020, 04:22:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Bộ Luật hình sự 2015 là một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án xem xét, quyết định giảm nhẹ hình phạt đối với người phạm tội.

    Ngoài ra, khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc “tình tiết khác” là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Trong đó, căn cứ Điểm 5 Mục I Công văn 212/TANDTC-PC năm 2019 và Nghị quyết 01/2000/NQ-HĐTP thì các "tình tiết khác" bao gồm:

    - Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, bà mẹ Việt Nam anh hùng, nghệ sỹ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước:

    - Bị cáo có anh, chị, em ruột là liệt sỹ;

    - Bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc trong công tác, có tỷ lệ thương tật từ 31 % trở lên;

    - Người bị hại cũng có lỗi;

    - Thiệt hại do lỗi của người thứ ba;

    - Gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

    - Người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;

    - Phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

    Và trong từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà Tòa án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ trong bản án.

    Như vậy đây được xem là điều luật mở nhằm tạo điều kiện cho Hội đồng xét xử có thể linh hoạt mở lượng khoan hồng cho người phạm tội trong trường hợp luật chưa quy định cụ thể. Xét về bản chất các tình thiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định ở khoản 2 nói chung không phải là các tình thiết giảm nhẹ chủ yếu bởi các tình tiết này không làm giảm tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Song như đã nêu ở trên xuất phát từ chính sách khoan hồng của đảng và nhà nước mà người phạm tội là lao động hay hoàn cảnh gia đình khó khăn có thể được xem là các tình thiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó hoàn toàn có thể hiểu rằng các tình thiết mà bạn đã nêu có thể được xem là tình thiết giảm nhẹ TNHS cho bố bạn.

  • Xem thêm     

    29/11/2020, 08:24:22 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn, để xác minh giám định dấu vân tay thì có thể tiến hành giám định tại các  Văn phòng giám định tư pháp, Trung tâm giám định tư pháp.

    Dấu vân tay phải nhận thấy bằng mắt thường, dấu vân tay chia làm hai loại là vân nhìn thấy (hay vân nổi) và không nhìn thấy (hay vân chìm). Vân nổi có thể dễ dàng tìm thấy được vì chúng nổi lên trên các bề mặt khi bụi đất, mực, sơn, dầu... mà người có dấu vân tay để lại trên bề mặt.

  • Xem thêm     

    24/11/2020, 10:00:54 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, đã có hiệu lực từ 1/8/2016. Đây là văn bản mới nhất, thay thế cho các Nghị định số 171/2013/NĐ-CP107/2014/NĐ-CP của Chính Phủ.

    Người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô sử dụng giấy phép lái xe (GPLX) giả sẽ bị phạt tiền lên tới 1,2 triệu đồng.

    Cụ thể, tại Điểm a, Khoản 5, Điều 21 Nghị định 46 quy định Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về Điều kiện của người Điều khiển xe cơ giới Phạt tiền từ 800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh dưới 175 cm3 và các loại xe tương tự xe mô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm: Không có giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Người điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô sử dụng GPLX giả sẽ bị phạt tiền lên tới 6 triệu đồng.

    Cụ thể, tại Điểm b, Khoản 7, Điều 21 Nghị định 46 quy định Xử phạt các hành vi vi phạm quy định về Điều kiện của người Điều khiển xe cơ giới, Phạt tiền từ 4.000.000 đồng đến 6.000.000 đồng đối với người Điều khiển xe mô tô có dung tích xi lanh từ 175 cm3 trở lên, xe ô tô, máy kéo và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm một trong các hành vi: Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Ngoài việc bị phạt tiền, người Điều khiển phương tiện thực hiện hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 5 Điều 21; Điểm b Khoản 7 Điều 21 còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung tịch thu Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa.

    Hành vi “Không có Giấy phép lái xe hoặc sử dụng Giấy phép lái xe không do cơ quan có thẩm quyền cấp, Giấy phép lái xe bị tẩy xóa” không cấu thành tội phạm theo quy định tại bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi 2017) nên sẽ không bị xử lý hình sự mà chỉ bị xử phạt hành chính.

  • Xem thêm     

    22/11/2020, 09:08:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Cái này bạn mô tả thật khó để hình dung rằng diễn biến vụ TNGT chính xác như thế nào, bạn phải chờ kết luận của cơ quan Cảnh sát giao thông hoặc Cơ quan điều tra để biết khi đó mới có thể tư vấn chính xác được. Hoặc bạn có thể tự tìm hiểu thêm về việc bạn lái xe qua như thế nào, người bên kia thế nào, nếu khu vực đường đó xuất phát từ người đi xe theo hướng ngược chiều với xe bạn đã đi không đúng phần đường, đâm vào phía bạn nên bạn đã tránh sang trái đường. Do vậy, khi va chạm xảy ra thì cả hai xe đều ở giữa đường, tại vị trí nào đều phải chờ cảnh sát giao thông giải quyết và kết luận 

  • Xem thêm     

    16/11/2020, 04:56:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có quy định về tội giao cấu và thực hiện hành vi tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

    Đối với trường hợp của bạn, nếu người bạn của bạn là người đã đủ tuổi thành niên, giao cấu với bạn gái là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi tuy mang tính chất tự nguyện nhưng hành vi của người bạn đó vẫn có thể bị truy tố theo quy định tại khoản 1, điều 145, Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

    “Điều 145. Tội giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi

    1. Người nào đủ 18 tuổi trở lên mà giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 142 và Điều 144 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.”

    Tuy nhiên, Bộ luật hình sự  có quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tức là theo thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự do Bộ luật hình sự quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    sự việc đã xảy ra cách đây 6 năm

    Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự 2015 (khoản 2 Điều 23 Bộ luật hình sự 1999) thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    - Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng.

    Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm (điểm a, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

    - Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

    Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù (điểm b, khoản 2 Điều 1 Bộ luật hình sự 2017).

    - Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

    Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù (điểm c, khoản 2 Điều 1, Bộ luật hình sự 2017).

    Theo đó việc xác định tội phạm thuộc loại tội phạm nào trong bốn loại trên phải dựa vào mức cao nhất của khung hình phạt được các nhà làm luật quy định tương ứng với tội danh ấy trong Bộ luật hình sự. Như đã phân tích, với mức án cao nhất của khung hình phạt cao nhất đối với người bạn của bạn là 5 năm tù  mà sự việc đã xảy ra gần 6 năm thì căn cứ điều luật ở trên thì người bạn đó phạm phải tội ít nghiêm trọng và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự do đã hết thời hiệu.

  • Xem thêm     

    16/11/2020, 11:17:42 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ điều 321 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 về tội đánh bạc:

    “Điều 321. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 5.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc hành vi quy định tại Điều 322 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 322 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên;

    c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

    d) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.”

    Nếu bạn đánh bạc được thua bằng tiền với giá trị từ 05 triệu đồng trở lên thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc. Tùy vào giá trị tài sản dùng vào việc đánh bạc mà xác định điều khoản áp dụng: nếu trong khoảng từ 5 triệu đến 50 triệu thì thuộc khoản 1 điều này với khung hình phạt từ sáu tháng đến ba năm; giá trị tài sản từ 50 triệu trở lên hoặc thuộc các trường hợp khác tại điểm a,c,d khoản 2 điều này thì khung hình phạt là từ ba năm đến bảy năm tù.

    Trách nhiệm hành chính

    Nếu không thuộc trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định trên thì bạn sẽ bị xử phạt vi pham hành chính theo khoản điều 26 Nghị định 167/2013 như sau: “Điều 26. Hành vi đánh bạc trái phép

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.

    2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:

    a) Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;

    b) Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;

    c) Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;

    d) Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;

    b) Che giấu việc đánh bạc trái phép.

    4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:

    a) Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;

    b) Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;

    c) Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;

    d) Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.

    5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh đề sau đây:

    a) Làm chủ lô, đề;

    b) Tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề;

    c) Tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề;

    d) Tổ chức cá cược trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.

    6. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có đối với hành vi quy định tại Khoản 1; Khoản 2; Điểm a Khoản 3; Điểm b, c, d Khoản 4 và Khoản 5 Điều này.

    ....”

    Tùy vào vai trò trong khi tham gia đánh bạc mà có thể bị xử lý theo các khoản 1,2,3,4,5 điều 26 và có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 6 điều này.

    Như vậy, tùy vào giá trị tài sản sử dụng vào việc đánh bạc để xác định trách nhiệm. Nếu giá trị tài sản từ 05 triệu trở lên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 321 Bộ luật hình sự, nếu dưới 05 triệu thì có thể bị xử phạt hành chính theo điều 26 nghị định 167/2013.

  • Xem thêm     

    14/11/2020, 09:43:35 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn có thể rất phức tạp nên bạn vui lòng liên hệ trực tiếp để luật sư có cơ sở thực hiện việc tư vấn cho bạn đảm bảo tính phù hợp giữa nội dung tư vấn và nội dung vụ việc cũng như các quy định của pháp luật.

16 Trang <1234567>»