Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

75 Trang «<58596061626364>»
  • Xem thêm     

    15/01/2018, 10:42:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Về trường hợp công an yêu cầu bạn xét nghiệm mẫu nước tiểu, sẽ có những dụng cụ thử nhanh và trực tiếp như que thử (hiện nay phổ biến ở Hà Nội là quỳ đổi màu) và sẽ thể hiện ngay việc bạn có ma túy trong máu không. Nếu có, tùy từng trường hợp theo mức độ mà công an giữ bạn lại để phục vụ điều tra. Đồng thời, hoàn toàn không có chuyện cơ quan công an được ra điều kiện với bạn hoặc là nộp tiền, hoặc là chịu phạt như bạn đã nêu. Cơ quan công an thực thi pháp luật nên nếu bạn sai – có tội thì bạn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật còn nếu bạn vô tội, cơ quan công an không có quyền bắt bạn chịu phạt hay nộp tiền. Nước ta là một đất nước theo tinh thần thượng tôn pháp luật và pháp luật không thể đem ra để ngã giá hay bán như vậy được. Ngoài ra, nếu bạn chưa có dấu hiện nghi vấn có tội, không có hành động chống đối và hợp tác thì cơ quan công an cũng không có quyền còng tay bạn. Do vậy, việc làm này của công an (nếu chính xác theo những gì bạn mô tả) là hoàn toàn sai pháp luậtNếu bạn chứng minh được việc này, bạn có thể làm đơn tố cáo lên cơ quan công an cấp cao hơn hoặc cơ quan khác như kiểm sát, tòa án (do tôi chưa đủ dữ kiện nên chưa đánh giá được chính xác mức độ nghiêm trọng do có một số trường hợp cơ quan điều tra của viện kiểm sát có thẩm quyền điều tra) nhưng nếu không thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan này thì nghĩa vụ của các cơ quan đó là gửi đơn tố cáo đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Đơn tố cáo cần kèm theo những bằng chứng cụ thể thể hiện hành vi sai trái và bằng chứng không cần là bản gốc. Hiện nay việc luân chuyển công tác cán bộ được dựa theo luật công chức nhà nước và các thông tư, nghị định kèm theo. Trong đó, Điều 6 thông tư số 06/2012/TT-BNV: Hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụvà tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn có quy định về chức năng nhiệm vụ của công chức này. Về các quy định về việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức được quy định tại Nghị định 158/ 2007/ NĐ- CP quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn kì chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định 150/ 2013/ NĐ- CP sửa đổi bổ sung Nghị định 158/ 2007/ NĐ- CP. Trong đó, Khoản 4 Điều 1 Nghị định 150/2013/NĐ- CP sửa đổi bổ sung Điều 7 Nghị định 158/2007/NĐ- CP có quy định các thời hạn định kì chuyển đổi vị trí công tác – Bạn thực hiện công tác từ năm 2012, tính đến nay là 5 năm, như vậy là trong thời hạn chuyển đổi vị trí công tác cán bộ. Ngoài ra, việc phân công công tác này còn dựa vào thẩm quyền (người ra quyết định có thẩm quyền không), vị trí chức danh (theo tôi  thấy ở đây là ngang nhau),… Đồng thời, trong quá trình công tác, người kia dù bị kỉ luật nhưng nếu trong thời gian đó người này chăm chỉ, thực hiện đúng công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ thì không có lí do để yêu cầu không luân chuyển, hơn nữa việc luân chuyển cán bộ của nhà nước cũng có những lí do nhất định, nhằm đảm bảo các cán bộ công chức có thể thực hiện chuyên, đảm nhiệm được nhiều vị trí cũng như chống những tiêu cực có thể xảy ra. Do vậy, trong trường hợp có những vấn đề trái pháp luật thì bạn cần nêu cụ thể hoặc cho tôi thêm dữ liệu để tôi có thể kiểm tra, nghiên cứu xem có thể xảy ra sai phạm hay không; và trường hợp không xảy ra sai phạm thì bạn nên chấp hành việc luân chuyển này. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    15/01/2018, 10:39:28 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hiện nay việc luân chuyển công tác cán bộ được dựa theo luật công chức nhà nước và các thông tư, nghị định kèm theo. Trong đó, Điều 6 thông tư số 06/2012/TT-BNV: Hướng dẫn về chức trách, tiêu chuẩn cụ thể, nhiệm vụvà tuyển dụng công chức xã, phường, thị trấn có quy định về chức năng nhiệm vụ của công chức này. Về các quy định về việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức được quy định tại Nghị định 158/ 2007/ NĐ- CP quy định danh mục các vị trí công tác và thời hạn kì chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định 150/ 2013/ NĐ- CP sửa đổi bổ sung Nghị định 158/ 2007/ NĐ- CP. Trong đó, Khoản 4 Điều 1 Nghị định 150/2013/NĐ- CP sửa đổi bổ sung Điều 7 Nghị định 158/2007/NĐ- CP có quy định các thời hạn định kì chuyển đổi vị trí công tác – Bạn thực hiện công tác từ năm 2012, tính đến nay là 5 năm, như vậy là trong thời hạn chuyển đổi vị trí công tác cán bộ. Ngoài ra, việc phân công công tác này còn dựa vào thẩm quyền (người ra quyết định có thẩm quyền không), vị trí chức danh (theo tôi  thấy ở đây là ngang nhau),… Đồng thời, trong quá trình công tác, người kia dù bị kỉ luật nhưng nếu trong thời gian đó người này chăm chỉ, thực hiện đúng công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ thì không có lí do để yêu cầu không luân chuyển, hơn nữa việc luân chuyển cán bộ của nhà nước cũng có những lí do nhất định, nhằm đảm bảo các cán bộ công chức có thể thực hiện chuyên, đảm nhiệm được nhiều vị trí cũng như chống những tiêu cực có thể xảy ra. Do vậy, trong trường hợp có những vấn đề trái pháp luật thì bạn cần nêu cụ thể hoặc cho tôi thêm dữ liệu để tôi có thể kiểm tra, nghiên cứu xem có thể xảy ra sai phạm hay không; và trường hợp không xảy ra sai phạm thì bạn nên chấp hành việc luân chuyển này. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    31/12/2017, 06:26:32 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn có thể gửi thông tin cá nhân và nguyện vọng tình nguyện đi dạy của mình cho các đơn vị là Phòng tổ chức cán bộ Sở Giáo dục - Đào tạo của các tỉnh vùng cao, biên giới, hải đảo nơi bạn sẵn sàng làm việc vào thời gian trước tháng 6,7 hàng năm tương ứng với thời gian tuyển dụng đội ngũ giáo viên của tỉnh. Nơi nào thực sự đang thiếu đội ngũ giáo viên hoặc ngành giáo dục còn gặp nhiều khó khăn họ sẽ tự động liên hệ lại và hướng dẫn bạn làm các thủ tục tuyển dụng cần thiết. Chúc bạn thành công!

  • Xem thêm     

    28/12/2017, 09:07:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Pháp luật hình sự quy định người phạm tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy là trường hợp người phạm tội với lỗi cố ý. Nghĩa là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán ma túy của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra; hoặc tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Trong trường hợp vợ bạn, nếu không may vì không biết mà ma túy thì hành vi đó chỉ là không cố ý, không thỏa mãn dấu hiệu về mặt chủ quan (lỗi cố ý của người tàng trữ) của tội tàng trữ hay vận chuyển trái phép chất ma túy nên bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. Nếu bạn không biết đó là ma túy mà biết rõ đó là chất ma túy thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tàng trữ trái phép chất ma túy. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    27/12/2017, 10:19:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Nếu trong trường hợp không xác định được bạn bị nghiện ma túy mà chỉ xác định là sử dụng ma túy thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 21 của  Nghị  định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời sẽ bị áp dụng biện pháp giáo dục cai tại xã, phường, thị trấn. Trường hơp đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện thì mới bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    27/12/2017, 12:12:05 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bộ Luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích và tội giết người

    Để xác định hành vi vi phạm trong trường hợp này cần căn cứ đến yếu tố lỗi và mục đích của Hiền.

    Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân là ngoài ý muốn của người phạm tội. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    Với tội giết người, người thực hiện hành vi có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Nghĩa là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp người thực hiện hành vi có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng con người thì họ phạm tội giết người.

    Trường hợp của bạn nêu là do mâu thuẫn cá nhân mà dẫn đến đánh hộ. Việc đánh người kia không phải do những người bạn đã có kế hoạch từ trước mà do có hành vi khiến bực tức mà đánh, nhưng chẳng may người bị hại đã chết. Việc chị bạn gọi bạn đến đánh có thể chị bạn được coi là đồng phạm trong vụ án. Có thể thấy cái chết là ngoài mong muốn của những người đánh và họ cũng không thể lường trước được sẽ chết. Tuy nhiên hậu quả chết người là do vết thương gây ra. Do đó những người đánh sẽ bị truy cứu theo quy định tại khoản 3 Điều 104 Bộ Luật Hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác dẫn đến chết thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    27/12/2017, 12:04:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:

    1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.

    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.

    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”

    Như vậy, khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không cần hội tụ đủ các yếu tố:

    - Thứ nhất, về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Trong tình huống của bạn, người kia sau khi đánh ngã bạn vẫn có ý định tấn công tiếp, đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của bạn

    - Thứ hai, về phía người phòng vệ: Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm. Người kia gây tổn hại về sức khỏe cho bạn và sau đó bạn cũng gây tổn hại về sức khỏe lại cho người đó.

    - Thứ ba, hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù mức thương tích bạn gây ra cho người kia lớn hơn mức thương tích bạn phải chịu nhưng điều này là cần thiết để bảo vệ sức khỏe đang bị đe dọa của mình.
    Như vậy, bước đầu có thể thấy rằng bạn đang trong tình thế cần và có quyền phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, Điều 106 Bộ luật quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là Mức thương tật để phân biệt giữa hành vi phòng vệ chính đáng và vượt quá phòng vệ chính đáng ở đây là 31%.

    Do vậy cần phải giám định mức độ thương tích trước khi có thể đưa ra được kết luận rằng bạn có vượt quá mức độ phòng vệ chính đáng không. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    26/12/2017, 08:47:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Ở trường hợp của bạn nêu, ngoài lời khai của bị cáo và bị hại về số tiền mặt bị mất trộm thì không còn chứng cứ nào khác để xác định rõ sự thật. Tuy nhiên có một nguyên tắc xuyên suốt trong tố tụng hình sự là không được làm bất lợi cho tình trạng của bị cáo khi không có chứng cứ vững chắc. Nghĩa vụ chứng minh tội phạm là của cơ quan tố tụng, đồng thời phần bị hại cũng phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh thiệt hại. Khi không chứng minh được thì đương nhiên bị can, bị cáo thừa nhận tới đâu thì xử lý tới đó. Cho dù thông cảm với hoàn cảnh của bị hại, có niềm tin nội tâm rằng bị hại khai thật nhưng khi không đủ cơ sở kết luận, cơ quan tố tụng vẫn phải chấp nhận mức khai nhận của bị can, bị cáo. Không thể buộc bị cáo chịu toàn bộ trách nhiệm theo lời khai đơn phương của bị hại. Nếu bạn vẫn còn thắc mắc, bạn có thể gọi điện theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn

  • Xem thêm     

    26/12/2017, 10:28:28 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Câu hỏi này đã được trả lời

  • Xem thêm     

    26/12/2017, 10:27:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Điều kiện đầu tiên, khi đánh nhau thì dựa vào tỷ lệ thương tật mà người đó gây ra cho người khác để xem xét trách nhiệm hình sự hay trách nhiệm hành chính đối với người gây ra cho người khác. Nếu không đủ dấu hiệu để xử lí hình sự thì có quyền yêu cầu công an xã phường lập biên bản và ra quyết định xử phạt hành chính.

    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 104, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác – Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.”

    Theo quy định tại Điều 104 Bộ Luật Hình sự thì dù thương tích có chưa đến 11% nhưng thuộc 10 điểm trên cũng có thể xử lý hình sự theo Điều này nếu tính chất, mức độ của hành vi đó nguy hiểm cho xã hội... Nếu không đến mức phải xử lý hình sự thì công an có thể áp dụng quy định tại Điều 7 của Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 để xử lý hành chính.

    Như vậy, với trường hợp của bạn thì bạn sẽ phải làm đơn tố cáo hoặc tố giác tới cơ quan công an để được giải quyết theo đúng quy định. Nếu bạn vẫn còn thắc mắc, bạn có thể gọi điện theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn

  • Xem thêm     

    24/12/2017, 08:26:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp bạn vùa nêu thì bạn trai bạn đã có hành vi bởi tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy được quy định tại Điều 194, Bộ luật Hình sự năm 1999 (Luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2009).“Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.”

    Như vậy, bạn trai bạn và người bạn kia vận chuyển vận chuyển 3g ma túy đá thuộc vào trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều này. Vì vậy, bạn trai kia có thể bị xử lý hình sự với mức khung hình phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Và việc mức án là do toà xét xử cùng với việc chấp hành án tốt thì sẽ được ân giảm án. Tuy nhiên nếu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của bạn trai đó có thể nhờ luật sư bào chữa. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    23/12/2017, 08:49:36 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo điều 144 và điều 145 Bộ luật lao động 2013 thì Người lao động (NLĐ) sẽ được bồi thường tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp khi bị tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc bị chết trừ trường hợp tai nạn lao động mà nguyên nhân xảy ra tai nạn hoàn toàn do lỗi của chính NLĐ bị nạn theo kết luận của biên bản điều tra tai nạn lao động (kể cả trường hợp NLĐ bị tai nạn khi thực hiện nhiệm vụ hoặc tuân theo sự điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động (NSDLĐ) ở ngoài phạm vi doanh nghiệp cho dù do lỗi của người khác gây ra hoặc không xác định được người gây ra tai nạn.

    NLĐ bị bệnh nghề nghiệp theo kết luận của Hội đồng Giám định Y khoa hoặc của cơ quan pháp y có thẩm quyền, thì được bồi thường trong các trường hợp sau.

    NLĐ bị chết do bệnh nghề nghiệp khi đang làm việc hoặc trước khi chuyển làm công việc khác, trước khi thôi việc, trước khi mất việc, trước khi nghỉ hưu hoặc bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên do bệnh nghề nghiệp theo kết quả thực hiện khám giám định bệnh nghề nghiệp định kỳ.

    Người sử dụng lao động bồi thường từng lần đối với NLĐ bị tai nạn lao động. Tai nạn lao động lần nào thì thực hiện bồi thường lần đó. NSDLĐ không được cộng dồn các vụ tai nạn đã xảy ra từ các lần trước đó.

    NSDLĐ bồi thường đối với NLĐ bị bệnh nghề nghiệp theo từng lần và theo nguyên tắc: Lần thứ nhất thì căn cứ vào mức (%) suy giảm khả năng lao động trong lần khám đầu. Từ lần thứ hai trở đi thì căn cứ vào mức suy giảm khả năng lao động tăng lên để bồi thường phần chênh lệch mức suy giảm khả năng lao động so với kết quả giám định lần trước liền kề.

    Về mức bồi thường được tính như sau:

    Đối với NLĐ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc bị chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp:ít nhất bằng 30 tháng tiền lương.

    Đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%: ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương.

    Đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì cứ tăng 1% sẽ được cộng thêm 0,4 tháng tiền lương. NSDLĐ có thể tra bảng tính mức bồi thường hoặc tính theo công thức sau:

    Như vậy, đối với câu hỏi của bạn khi người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10% thì được bồi thường ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.


  • Xem thêm     

    23/12/2017, 03:01:23 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo quy định tại ĐIều 37 Bộ luật lao động 2012, người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng phải có lý do và phải báo trước cho người sử dụng lao động ít nhất 30 ngày. Trong 30 ngày này bạn phải làm viêc bình thường. Nếu đơn vị không cho nghỉ không lương. Nếu bạn tự ý nghỉ những ngày cuối, công ty có thể quy vào đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật do vi phạm thời gian báo trước. Lúc này, người lao động có nghĩa vụ phải bồi thường cho người sử dụng lao đông. Về bản chất,sa thải và đơn phương chấm dứt hợp đồng vẫn nhận đươc tiền lương những ngày làm việc. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    23/12/2017, 02:54:27 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Hợp đồng cung ứng lao động không quy định trong Bộ luật lao động, mà chỉ có "Tổ chức giới thiệu việc làm". "Tổ chức giới thiệu việc làm" thì lại không có chức năng ký kết HĐ dịch vụ cung ứng lao động. Trong GCN ĐKKD, tôi cũng chưa thấy có ngành nghề cung ứng lao động. Do vậy, việc cung ứng lao động là trái quy định pháp luật về lao động. Vì lẽ đó, các công ty "cho thuê lại lao động" sẽ lách luật bằng cách chuyển sang hình thức ký HĐ cung cấp dịch vụ với các doanh nghiệp, và được xem là hợp pháp, nhưng về bản chất đó cũng là cho thuê lại lao động. Rõ ràng là đối với các dạng cung ứng dịch vụ vệ sinh công nghiệp, di dời nhà xưởng, văn phòng, cung ứng bảo vệ ... thì theo tôi là có thể ký kết dạng HĐ cung cấp dịch vụ (hiện nay nhiều cty đang áp dụng). Còn cung ứng vài trăm công nhân lao động thời vụ thì có được xem là cung ứng dịch vụ nữa hay không?. Theo tôi rường hợp bạn hỏi là không thể vì trái với quy định. Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/12/2017, 03:24:45 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn có trình bày bạn với trường mần non tư thục thử việc 3 tháng chỉ thỏa thuận bằng miệng và không có hợp đồng, trong đó cam kết bạn sẽ làm việc cho công ty 02 tháng, sau 2 tháng công ty sẽ ký hợp đồng chính thức. Điều này có nghĩa là thời gian 2 tháng đầu của bạn được xác định là thời gian thử việc của bạn theo quy định tại Điều 26 Bộ luật lao động 2012.

    Bên cạnh đó, theo khoản 2, Điều 29 Bộ luật lao động 2012 về kết thúc thời gian thử việc. Theo đó, trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận thử việc mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận. 

    Theo Khoản 2 Điều 47 Bộ luật lao động năm 2012 quy định về trách nhiệm của người sử dụng lao động khi chấm dứt hợp đồng lao động, cụ thể là:

    "Trong thời hạn 07 ngày làm việc, kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, hai bên có trách nhiệm thanh toán đầy đủ các khoản có liên quan đến quyền lợi của mỗi bên; trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài nhưng không được quá 30 ngày".

    Như vậy, khi chấm dứt hợp đồng nhà trường có trách nhiệm trong vòng 30 ngày kể từ ngày chấm đứt hợp đồng phải thanh toán tiền lương đầy đủ cho bạn, việc hẹn sẽ trả lương vào ngày 21/11 là không đúng quy định pháp luật.

    Trong trường hợp này, nếu bạn không được thanh toán tiền lương thì bạn có thể khiếu nại lên ban lãnh đạo nhà trường, nếu nhà trường vẫn không trả lương cho bạn thì bạn có thể gửi đơn lên phòng lao động thương binh và xã hội để hòa giải, nếu hòa giải không thành thì bạn có thể gửi đơn ra tới Tòa Án để đòi lại quyền lợi của mình. . Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:31:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, với hành vi đánh người của người đó nếu qua giám định tỷ lệ thương tích chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử lý vi phạm hành chính. Theo quy định tại điểm e khoản 3 Điều 5 của Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình:

    "3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác".

    Như vậy, người đó sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi đánh người trên. Bên cạnh đó phải bồi thường theo quy định tại Điều 590 – Bộ Luật Dân sự 2015 về thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

    d) Thiệt hại khác do luật quy định.

    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”

  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:23:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, với hành vi hăm dọa, xúc phạm và vu khống, từ người tự xưng là anh đó thì bạn cần giữ lại các tin nhắn để làm căn cứ, trình báo sự việc với cơ quan công an. Bạn cần xác định được tên, địa chỉ người đó để viết đơn tố cáo và bạn có thể tham khảo mẫu đơn tố cáo theo quy định của pháp luật. Về cơ bản, nội dung đơn bạn chỉ cần trình bày cụ thể, chính xác những hành vi vi phạm trên thực tế của người bị tố cáo. Và bạn cần nộp đơn tố cáo tại địa phương nơi người đó sinh sống.

    Trường hợp công an đã giải quyết nhưng họ vẫn tiếp tục hành vi vi phạm thì trong đơn bạn cần bổ sung thêm chi tiết ghi rõ kết luận và kết quả giải quyết của cơ quan công an cũng như các hành vi tiếp tục đe dọa và xúc phạm bạn của người bị tố cáo sau khi cơ quan công an đã giải quyết. Khi nộp đơn, bạn nộp kèm với tất cả bằng chứng chứng minh hành vi vi phạm như trên của người bị tố cáo.

    Ngoài ra, về hành vi của bạn bạn có thể sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo căn cứ tại điều 140 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    Do đó, bạn có thể nộp đơn tố cáo bạn bạn về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với giá trị 7 triệu đồng. Nếu bạn có thắc mắc hãy liên hệ 1900 6280 để nghe luật sư tư vấn trực tiếp

  • Xem thêm     

    13/12/2017, 04:04:07 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi xác định Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh kia không được coi là chứng nhận kinh nghiệm. Thông thường, Giấy xác nhận kinh nghiệm làm việc cho người nước ngoài tại Việt Nam phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu sau:

    Thông tin Công ty đầy đủ: tên, địa chỉ, số điện thoại.

    Thông tin người cần được xác nhận đầy đủ: họ tên, ngày tháng năm sinh, quốc tịch, số hộ chiếu.

    Thời gian làm việc cần xác nhận phải ghi rõ: từ ngày tháng năm nào đến ngày tháng năm nào.

    Ghi rõ chức vụ của người cần xác nhận đã đảm nhận tại Công ty.

    Chỉ xác nhận làm việc tại Công ty, không nêu thêm vị trí, thời gian mà người cần xác nhận đã nắm giữ hoặc làm việc tại Công ty khác.

    Người ký xác nhận phải ghi rõ chức vụ trong Công ty: giám đốc, phó giám đốc…

    Phải đóng dấu của Công ty lên bản xác nhận.

    Như vậy, nội dung phần này rất quan trọng, khi làm Giấy xác nhận kinh nghiệm làm việc. Và để làm Giấy xác nhận kinh nghiệm làm việc, cần các thông tin sau:

    - Scan hộ chiếu của người nước ngoài cần làm Xác nhận kinh nghiệm trên 03 năm làm việc.

    - Vị trí tuyển dụng của người nước ngoài tại Công ty Việt Nam.

    - Bản mô tả công việc sẽ đảm nhận tại Công ty tại Việt Nam.

    - Bản photo bằng cấp hoặc các chứng chỉ đào tạo liên quan (nếu có).

    - Thời gian làm Xác nhận kinh nghiệm là 40 ngày làm việc.

    Do đó, để xin cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài tại Việt Nam, trong bộ hồ sơ phải có Giấy chứng nhận kinh nghiệm làm việc tại nước ngoài (quy định mới là trên 03 năm, cũ là trên 05 năm). Giấy chứng nhận này phải được hợp pháp hóa lãnh sự tại cơ quan Ngoại giao nước sở tại.

    Như vậy, giấy chứng nhận kinh doanh kia không được coi là giấy chứng nhận kinh nghiệm và bạn phải làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận kinh nghiệm và được hợp pháp hóa lãnh sự tại cơ quan Ngoại giao của nước sở tại. Sau đó bạn mới có thể xin cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài đó làm việc tại Việt Nam.

    Trên đây là nội dung về vấn đề của bạn, nếu còn vướng mắc để được giải đáp ngay, các bạn hãy gọi 19006280 để nghe luật sư tư vấn trực tiếp.

  • Xem thêm     

    13/12/2017, 03:59:47 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, Công ty bạn là cơ sở sản xuất bao bì nhựa nên căn cứ Điều 37 Nghị định số 39/2016/NĐ-CP quy định vể tổ chức bộ phận y tế thì Việc tổ chức bộ phận y tế quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 73 Luật An toàn, vệ sinh lao động được quy định như sau:

    “…

    2. Đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh hoạt động trong các lĩnh vực, ngành nghề khác với lĩnh vực, ngành nghề quy định tại Khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải tổ chức bộ phận y tế tại cơ sở bảo đảm các yêu cầu tối thiểu sau đây:

    a) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng dưới 500 người lao động ít nhất phải có 01 người làm công tác y tế trình độ trung cấp;

    b) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 500 đến dưới 1.000 người lao động ít nhất phải có 01 y sỹ và 01 người làm công tác y tế trình độ trung cấp;

    c) Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng trên 1.000 người lao động phải có 01 bác sỹ và 1 người làm công tác y tế khác.

    3. Người làm công tác y tế ở cơ sở quy định tại các Khoản 1 và 2 Điều này phải đáp ứng đủ các Điều kiện sau đây:

    a) Có trình độ chuyên môn y tế bao gồm: bác sỹ, bác sỹ y tế dự phòng, cử nhân Điều dưỡng, y sỹ, Điều dưỡng trung học, hộ sinh viên;

    b) Có chứng chỉ chứng nhận chuyên môn về y tế lao động.”

    Như vậy, Doanh nghiệp bạn có số lao động dưới 100 người như nêu trên thì phải có 1 người làm công tác y tế trình độ trung cấp,tổ chức bộ phận y tế tại cơ sở sẽ có trách nhiệm khám chữa bệnh thông thường, quản lý sức khỏe của người lao động tại đơn vị và sơ cứu, cấp cứu tai nạn lao động. Nếu công ty bạn thành lập đội sơ cấp cứu dựa trên chứng nhận đã cấp và không có nhân viên có trình độ trung cấp về y tế thì sẽ vi phạm quy định an toàn, vệ sinh lao động.

    Đối với doanh nghiệp không bố trí được người làm công tác y tế hoặc không thành lập được bộ phận y tế theo quy định nêu trên thì cơ sở sản xuất, kinh doanh thực hiện theo quy định sau: Ký hợp đồng với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đủ năng lực để cung cấp đủ số lượng người làm công tác y tế theo quy định nêu trên; có mặt kịp thời tại cơ sở sản xuất, kinh doanh khi xảy ra các trường hợp khẩn cấp trong thời hạn 30 phút đối với vùng đồng bằng, thị xã, thành phố và 60 phút đối vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Hoặc thông báo thông tin cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trên theo mẫu tại Phụ lục XXII ban hành kèm theo Nghị định 39/2016/NĐ-CP với Sở Y tế cấp tỉnh, nơi cơ sở có trụ sở chính.

    Trên đây là nội dung về vấn đề của bạn, nếu còn vướng mắc để được giải đáp ngay, các bạn hãy gọi 19006280 để nghe luật sư tư vấn trực tiếp.

  • Xem thêm     

    13/12/2017, 03:56:57 CH | Trong chuyên mục Lao động

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với trường hợp của bạn, việc Công ty không thông báo trước thời điểm chấm dứt hợp đồng mà đột ngột yêu cầu bạn nghỉ việc là sai quy định của pháp luật.

    Theo thông tin bạn cung cấp, hợp đồng lao động bạn làm việc là loại hợp đồng lao động có xác định thời hạn theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012:

    Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ 12-36 tháng”.

    Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Lao động 2012 :

    Ít nhất 15 ngày trước ngày hợp đồng lao động xác định thời hạn hết hạn, người sử dụng lao động phải thông báo bằng văn bản cho người lao động biết thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động”. 

    Mặt khác, Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012 cũng quy định:

    Khi hợp đồng lao động quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 điều này hết hạn mà người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hợp đồng lao động hết hạn, hai bên phải ký kết hợp đồng lao động mới; nếu không ký kết hợp đồng lao động mới thì hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm b khoản 1 điều này trở thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn và hợp đồng đã giao kết theo quy định tại điểm c khoản 1 điều này trở thành hợp đồng lao động xác định thời hạn với thời hạn là 24 tháng.

    Trường hợp hai bên ký kết hợp đồng lao động mới là hợp đồng xác định thời hạn thì cũng chỉ được ký thêm 1 lần, sau đó nếu người lao động vẫn tiếp tục làm việc thì phải ký kết hợp đồng lao động không xác định thời hạn”.

    Căn cứ vào bản hợp đồng lao động của bạn với công ty đã hết hạn trước đó, và bạn vẫn đang tiếp tục làm việc thì trong khoảng thời hạn 30 ngày tính từ ngày hết hạn hợp đồng lao động , công ty sẽ phải ký kết hợp đồng lao động mới với bạn. Và hợp đồng lao động mới của bạn sẽ là hợp đồng lao động không xác định thời hạn theo quy định tại Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 2012.

    Như vậy, công ty bạn đã thực hiện sai quy định của pháp luật nên bạn có quyền nộp đơn Khiếu nại lần lên lãnh đạo của công ty, nếu công ty không giải quyết hoặc trả lời không thỏa đáng bạn có quyền nộp đơn Khiếu nại lần 2 lên phòng Lao động thương binh và xã hội ở địa phương hoặc Toà án có thẩm quyền để được giải quyết.

    Trên đây là nội dung về vấn đề của bạn, nếu còn vướng mắc để được giải đáp ngay, các bạn hãy gọi 19006280 để nghe luật sư tư vấn trực tiếp.

75 Trang «<58596061626364>»