Theo Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về Hợp đồng vay tài sản:
"Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”
Mà tiền cũng là một trong các loại tài sản vì thế hợp đồng vay tiền được coi là một trong số những hợp đồng vay tài sản. Theo đó, việc bạn có giấy nợ hay không hoàn toàn không ảnh hưởng tới hiệu lực của hợp đồng vay tài sản mà bạn đã giao kết.
Trong trường hợp này người đang không thực hiện đúng nghĩa vụ hợp đồng là bạn, vì vậy bạn có thể nói chuyện với bên cho vay để trình bày về hoàn cảnh của mình và thương lượng với họ gia hạn thời gian trả tiền.
Tuy nhiên việc bên chủ nợ doạ đến đánh người nhà bạn là vi phạm pháp luật.
Để hạn chế, ngăn chặn tình trạng đòi nợ thuê, trước hết phải ngăn ngừa từ chính người vay nợ. Theo đó, khi vay nợ, bản thân người vay phải có ý thức trả nợ, không chây ì, trốn tránh, phải nỗ lực bằng mọi cách để trả nợ. Trong trường hợp mất khả năng thanh toán, thì phải thỏa thuận với bên cho vay để tìm phương án giải quyết. Trong trường hợp bị bên cho vay đe dọa, cần báo cáo với cơ quan Công an để có biện pháp phòng ngừa, xử lý.
Với hành vi của nhóm người được thuê để đòi nợ, hành vi của họ tùy vào mức độ nghiệm trọng có thể bị xử lý hành chính hoặc hình sự:
Họ có thể bị xử phạt hành chính theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều 5 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống, chống bạo lực gia đình như sau:
"1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;
b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;
c) Thả rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.
2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;
b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;
d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;
đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;
e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;
g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;
h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác."
Thậm chí, nếu họ có hành vi đe dọa giết bố bạn hay các thành viên trong gia đình bạn, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội đe dọa giết người theo quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:
“Điều 133. Tội đe dọa giết người
1. Người nào đe dọa giết người, nếu có căn cứ làm cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa này sẽ được thực hiện, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;
d) Đối với người dưới 16 tuổi;
đ) Để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về một tội phạm khác.”
Do đó, cần căn cứ cụ thể vào biểu hiện hành vi và mức độ nghiêm trọng trong hành vi của họ để xác định họ sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý ở mức độ nào.
Tuy nhiên, lực lượng công an sẽ không thể ra quyết định bắt giữ đối tượng đe dọa nếu việc đe dọa ở mức độ chưa đủ để bắt giữ, hoặc chưa xảy ra hậu quả (trong trường hợp quy định phải có hậu quả mới được bắt giữ). Do đó, lực lượng công an chỉ có thể xử lý được sự việc tức thời, bảo vệ trong trường hợp bị đe dọa khẩn cấp, thậm chí là răn đe, xử lý người đe dọa theo quy định.