Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Thanh Tùng - thanhtungrcc

25 Trang «<13141516171819>»
  • Xem thêm     

    06/11/2018, 11:15:50 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi tư vấn cho bạn như sau:

    Khoản 1, 2 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản. 

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: 

    a) Có tổ chức; 

    b) Có tính chất chuyên nghiệp; 

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng; 

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức; 

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt; 

    e) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    g) Tái phạm nguy hiểm”. 

    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn có ủy quyền cho 1 người quen ở Hà Nội lấy giúp số tiền người ta nợ là 255 triệu đồng, sau khi lấy xong, người này chỉ chuyển cho bạn 150 triệu còn 105 triệu bảo bên kia chưa trả nhưng thực tế là có chứng từ bên nợ bạn đã trả đủ 255 triệu cho người tôi ủy quyền, bạn  đã đòi 6 tháng rồi nhưng người đó hứa hẹn mãi không trả. Như vậy, người kia đã nhận được tài sản của bạn thông qua hợp đồng ủy quyền, và dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản (lấy lí do là bên nợ chưa trả 105 triệu đồng để chiếm đoạt số tiền đó). Do vậy, người này có thể bị truy cứu về tội lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản được quy định tại Khoản 2 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017. Theo đó, bạn có thể yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với hành vi trên.

    Thời hạn giải quyết một vụ án hình sự được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng hình sự như sau:

    - Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và khởi tố vụ án hình sự: Theo quy định tại Điều 147 của BLTTHS 2015 thì trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể dài hơn, nhưng không quá 02 tháng.

    - Sau khi cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì sẽ tiến hành điều tra. Thời hạn điều tra được quy định như sau:

    + Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

    + Nếu vụ án có tính chất phức tạp thì có thể được gia hạn thời hạn điều tra, cụ thể: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng; Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra 02 lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng; Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra 02 lần, mỗi lần không quá 04 tháng; Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra 03 lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

    Hết thời hạn điều tra, cơ quan điều tra sẽ ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố.

    - Thời hạn truy tố: Trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát sẽ ra bản cáo trạng tuy tố bị can trước Tòa án.

    Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn, nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    - Thời hạn xét xử:

    + Trong thời hạn 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa sẽ ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    + Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn 30 ngày.

    Như vậy thời hạn để giải quyết một vụ án hình sự, kể từ thời điểm nhận tố giác, khởi tố vụ án đến mở phiên tòa xét xử là:

    - Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì thời hạn giải quyết vụ án là khoảng 4 tháng 25 ngày; trường hợp đặc biệt, được gia hạn thì tối đa là 9 tháng 15 ngày.

    - Đối với tội nghiêm trọng thì thời hạn giải quyết vụ án là khoảng 6 tháng 10 ngày; trường hợp đặc biệt, được gia hạn thì tối đa là 14 tháng.

    - Đối với tội nghiêm trọng thì thời hạn giải quyết vụ án là khoảng 8 tháng 5 ngày; trường hợp đặc biệt, được gia hạn thì tối đa là 19 tháng 15 ngày.

    - Đối với tội đặc biệt nghiêm trọng thì thời hạn giải quyết vụ án là khoảng 9 tháng 5 ngày; trường hợp đặc biệt, được gia hạn thì tối đa là 22 tháng.

    Theo quy định tại Điều 175 và Điều 8 của BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 thì tội phạm thuộc quy định tại khoản 2 Điều 175 là tội phạm nghiêm trọng; do vậy thời hạn giải quyết vụ án là khoảng 8 tháng 5 ngày; trường hợp đặc biệt, được gia hạn thì tối đa là 19 tháng 15 ngày.

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 11:33:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Việc bạn hỏi khi bạn trình báo cơ quan công an thì cơ quan công an các cấp có quyền triệu tập hỏi cung người bị tố giác. Việc triệu tập dành cho những người có liên quan đến những vụ việc được giải quyết trong trường hợp này bắt đầu từ giai đoạn tiếp nhận, xử lý thông tin tố giác cho rằng những người đó đã sử dụng ma túy và cơ quan công an sẽ công an tiến hành làm xét nghiệm tình trạng nghiện ma túy của những người đó xem ai sử dụng ma túy. Trường hợp không xác định được những người đó không nghiện ma túy mà chỉ xác định là sử dụng ma túy thì sẽ bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 21 của  Nghị  định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng và chữa cháy; phòng, chống bạo lực gia đình. Đồng thời sẽ bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Trường hơp đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện thì mới bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 11:07:24 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo thông tin bạn đưa ra thì bạn đi xe máy đến ngã tư gặp ô tô cùng rẽ vào ngõ bất ngờ không làm chủ được tay lái lao vào phía sau xe ô tô. Bấy giờ lên công an bảo bên xe máy sai và phải bồi thường cho bên ô tô .

    Như vậy, có thể xác định có thể khoảng cách giữ xe của bạn với xe ô tô khá nhỏ hoặc tốc độ xe của bạn lớn so với quy định của luật. Trong trường hợp này do bạn không nêu rõ khoảng cách và tốc độ xe của bạn với ô tô do đó chúng tôi giả sử khoảng cách và tốc độ xe của bạn không tuân thủ theo đúng quy định pháp luật.

    Theo quy định tại Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì hành vi của bạn đã phát sinh ra trách nhiệm bồi thường, cụ thể:

     “1. Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    3. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều này.”

    Để xác định con số bồi thường cụ thể trước hết bạn cần phải xác định tài sản mà bạn hủy hoại, làm hư hỏng của bên kia. Bởi theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì khi tiến hành bồi thường bạn sẽ chỉ phải bồi thường về phần thiệt hại do mình gây ra.

    “Điều 589. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm

    Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:

    1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.

    2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.

    3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.

    4. Thiệt hại khác do luật quy định.”

    Do đó, khi người chủ xe yêu cầu bạn phải bồi thường 1 triệu đồng bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu bên người chủ xe đó xuất trình cho bạn xem những hóa đơn, chứng từ thể hiện việc sửa chữa, khắc phục thiệt hại.

    Trong trường hợp nếu bên chủ xe ô tô yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết thì với thông tin dữ liệu bạn đưa ra chúng tôi có thể thấy rằng bạn chưa đủ cấu thành tội phạm, có thể khi ra cơ quan nhà nước có thẩm quyền bạn sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 6 Nghị định 46/2016/NĐ-CPvà bồi thường thiệt hại theo quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2015 nêu trên.

    “Điều 6. Xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ

    1. Phạt tiền từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:...

    c) Không giữ khoảng cách an toàn để xảy ra va chạm với xe chạy liền trước hoặc không giữ khoảng cách theo quy định của biển báo hiệu “Cự ly tối thiểu giữa hai xe”;...

    3. Phạt tiền từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:...

    b) Không giảm tốc độ hoặc không nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính;

    c) Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 05 km/h đến dưới 10 km/h;...

    4. Phạt tiền từ 300.000 đồng đến 400.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    a) Chuyển hướng không giảm tốc độ hoặc không có tín hiệu báo hướng rẽ (trừ trường hợp điều khiển xe đi theo hướng cong của đoạn đường bộ ở nơi đường không giao nhau cùng mức);...

    5. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người điều khiển xe thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây:

    a) Điều khiển xe chạy quá tốc độ quy định từ 10 km/h đến 20 km/h;...”

    Đối với phương tiện giao thông vi phạm hành chính thuộc trường hợp bị tạm giữ để bảo đảm thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, nếu tổ chức, cá nhân vi phạm có địa chỉ rõ ràng, có điều kiện bến bãi, bảo quản phương tiện hoặc khả năng tài chính đặt tiền bảo lãnh thì có thể được giữ phương tiện vi phạm dưới sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau thời gian bị tạm giữ và trong thời gian hẹn, trên cơ sở điều tra xác minh lỗi, cơ quan chức năng có vai trò trung gian trong việc giải quyết việc bồi thường giữa hai bên và tiến hành xử lý đối với hành vi vi phạm theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính 2012. Nếu còn vướng mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, các bạn hãy gọi 1900 6280 liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 04:45:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp bạn hỏi, chúng tôi tư vấn như sau:

    Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về vấn đề này tại điều 155 về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại quy định:

    1. Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.

    2.  Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.

    3.  Bị hại hoặc người đại diện của bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.”

    Như vậy, pháp luật quy định các trường hợp về các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái bị kích động mạnh; cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác... chỉ được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại  hoặc của người đại diện hợp pháp của họ. Theo đó, đối với tội cố ý gây thương tích, chỉ có hành vi cố ý gây thương tích thuộc khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự thì người phạm tội mới có khả năng không bị khởi tố hình sự khi nạn nhân làm đơn bãi nại – Đơn rút yêu cầu khởi kiện. Lúc này, tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Còn trường hợp của nhóm người đã phạm tội cố ý gây thương tích tại khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự (thương tích 70% thuộc khoản 2) cho nên họ vẫn sẽ bị khởi tố về tội này mặc cho người bị hại là anh em bạn có làm đơn bãi nại hay không. Sở dĩ pháp luật quy định như vậy là xuất phát từ trách nhiệm đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, đồng thời răn đe; giáo dục; nâng cao ý thức pháp luật cho mỗi người dân.

    Hành vi rút đơn yêu cầu của người bị hại, có đơn bãi nại từ phía người bị hại chỉ là tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho nhóm người kia. Nếu còn vướng mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, các bạn hãy gọi 1900 6280 liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    04/11/2018, 04:24:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo các quy định tại chương XX Bộ luật hình sự 2015 về các tội phạm về ma túy từ điều 247 đến điều 259 thì không có quy định nào về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên có thể hiểu hành vi sử dụng ma túy trái phép không bị coi là hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự 2015. Tuy nhiên , ở một khía cạnh khác, hành vi của người bạn của bạn là một hành vi được cho là có nguy cơ gây mất trật tự, an ninh công cộng nên con trai bạn sẽ bị xử phạt theo quy định tại Nghị định 167/2013 quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy ; phòng, chống bạo lực gia đình quy định.

    Cụ thể, Khoản 1 Điều 21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định:

     “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.”

    Như vậy, tùy vào mức độ hành vi vi phạm và yếu tố nhân thân, người bạn đó có thể phải chịu hình thức xử phạt hành chính là phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng vì hành vi của mình.

    Về việc đưa đi cơ sở cai nghiện thì pháp luật có quy định tại Điều 28 Luật phòng, chống ma túy 2000:

    “1. Người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã được cai nghiện tại gia đình, cộng đồng hoặc đã được giáo dục nhiều lần tại xã, phường, thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc không có nơi cư trú nhất định phải được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

    2.  Việc đưa người nghiện ma tuý vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiệntheo quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Thời hạn cai nghiện ma tuý tại cơ sở cai nghiện bắt buộc từ một năm đến hai năm.

    3.  Người nghiện ma tuý tự nguyện làm đơn xin cai nghiện thì được nhận vào cai nghiện tại cơ sở cai nghiện bắt buộc và không bị coi là bị xử lý vi phạm hành chính.

    4.  Tổ chức và hoạt động của cơ sở cai nghiện bắt buộc, chế độ cai nghiện bắt buộc, thủ tục đưa người nghiện ma tuý quy định tại khoản 1 Điều này vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được thực hiện theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.”

    Như vậy, căn cứ vào việc đưa người bạn lần đầu sử dụng ma túy thì không thuộc vào trường hợp nào được quy định tại Điều 28 Luật Phòng chống ma túy 2008 nên sẽ không phải đi cai nghiện tại cơ sở cai nghiện. Nếu còn vướng mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, các bạn hãy gọi 1900 6280 liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    29/10/2018, 05:32:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với vướng mắc trên, chúng tôi tư vấn như sau:

    Truy cứu trách nhiệm hình sự:

    Khoản 1 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản”. 

    Theo thông tin bạn cung cấp bên kia đã nhận được tài sản của bạn thông quan hợp đồng mua bán (đồng hồ trị giá 3.200.000 đồng), tuy nhiên, người đó đã dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó (shipper đến lấy nhưng bên mua không chịu nghe máy). Theo đó, nếu người đóđã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội xâm phạm sở hữu chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Khoản 1 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Xử phạt vi phạm hành chính:

    Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP về vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác quy định như sau:

    “1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Trộm cắp tài sản;

    b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;

    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

    d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác”.

    Như vậy, nếu người đó không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiện chiếm đoạt tài sản thì người này sẽ bị xử phạt hành chính theo Điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP. Theo đó, người này sẽ bị phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

    Như vậy, trong trường hợp này bạn được tố cáo.  Bạn nên làm đơn tố cáo gửi lên cơ quan công an nơi xảy ra hành vi chiếm đoạt tài sản để được giải quyết.

    Ngoài ra, về quan hệ dân sự:

    Điều 127 BLDS 2015 quy định giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép như sau:

    “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa, cưỡng ép thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa, cưỡng ép trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch dân sự nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của người thân thích của mình”.

    Trong trường hợp này, bạn tham gia giao dịch dân sự nhưng bị lừa dối, do vậy giao dịch dân sự (đổi trả lại đồng hồ) bị vô hiệu.

    Điều 131 BLDS 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

    “1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập.

    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

    Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả.

    3. Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó.

    4. Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    5. Việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định”.

    Theo đó, người kia phải trả lại đồng hồ cho bạn. Nếu bạn biết được nơi cư trú làm việc của người đó thì làm đơn khởi kiện về việc kiện đòi tài sản gửi lên TAND cấp huyện nơi người đó cư trú.

  • Xem thêm     

    28/10/2018, 05:31:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn, đã được trả lời như sau:

    Bạn có nhờ 1 người bạn mang chiếc xe máy Suzuki Fx125 của bạn đi cầm đồ với số tiền là 2500.000đ và cắt lãi luôn 30 ngày -300 ngàn đồng. Được 2 ngày sau thì bạn gọi cho bạn đi chuộc xe hộ và  đưa số tiền là 2500.000đ, người bạn đó cầm tiền dồi nói tối đem xe về cho nhưng không biết vì lí do gì mà không lấy xe về cho bạn. Bạn đã gọi điện hỏi xe đâu thì cứ hẹn hết ngày này qua ngày khác là sẽ đem xe đưa cho tôi nhưng vẫn đợi trong vô vọng, đến nay thì được 1 tháng dồi tôi có đến nhà tìm nhưng không gặp. Gọi thì không bắt máy. Người bạn đó đã có dấu hiệu của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:

    1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    …”

    Trường hợp của bạn nên Tố giác hành vi này đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền là nơi hành vi lừa đảo được thực hiện, ví dụ nếu lừa ở nới người đó cứ trú thì Cơ quan điều tra cấp huyện hoặc tỉnh nơi cứ trú của ngườ đó để được xử lý theo quy định. Việc tố cáo hoặc tố giác này bạn không phải trả án phí. Trường hợp còn vướng mắc hay các trường hợp tương tự khác, các bạn có thể liên lạc trực tiếp với tôi để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    28/10/2018, 05:29:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Bạn có nhờ 1 người bạn mang chiếc xe máy Suzuki Fx125 của bạn đi cầm đồ với số tiền là 2500.000đ và cắt lãi luôn 30 ngày -300 ngàn đồng. Được 2 ngày sau thì bạn gọi cho bạn đi chuộc xe hộ và  đưa số tiền là 2500.000đ, người bạn đó cầm tiền dồi nói tối đem xe về cho nhưng không biết vì lí do gì mà không lấy xe về cho bạn. Bạn đã gọi điện hỏi xe đâu thì cứ hẹn hết ngày này qua ngày khác là sẽ đem xe đưa cho tôi nhưng vẫn đợi trong vô vọng, đến nay thì được 1 tháng dồi tôi có đến nhà tìm nhưng không gặp. Gọi thì không bắt máy. Người bạn đó đã có dấu hiệu của Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017:

    1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    …”

    Trường hợp của bạn nên Tố giác hành vi này đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền là nơi hành vi lừa đảo được thực hiện, ví dụ nếu lừa ở nới người đó cứ trú thì Cơ quan điều tra cấp huyện hoặc tỉnh nơi cứ trú của ngườ đó để được xử lý theo quy định. Việc tố cáo hoặc tố giác này bạn không phải trả án phí.

  • Xem thêm     

    28/10/2018, 05:19:02 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Câu hỏi đã được trả lời!

  • Xem thêm     

    24/10/2018, 05:28:25 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi tư vấn như sau:

    a) Đối với hành vi của ông Khái:

    Khoản 1 Điều 172 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản như sau:

    “ Người nào công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

    a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

    b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 173, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

    c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”.

    Theo thông tin bạn cung cấp, ông khái đi qua cố tình nhặt bao thóc mang về, do vậy nếu ông khái đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 172 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 thì ông Khái có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Theo đó, ông Thái có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

    Nếu không đủ các yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự thì ông Khái sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác. Cụ thể, Khoản 1 Điều 15 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác như sau:

    “Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Trộm cắp tài sản;

    b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;

    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

    d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác”.

    Như vậy, ông Khái có thể bị phạt từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

    b) Đối với hành vi của 2 đứa con ông Khái:

    Khoản 1 Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sun g 2017 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác như sau:

    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người; 

    b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm; 

    c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ; 

    d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; 

    đ) Có tổ chức; 

    e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; 

    g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; 

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê; 

    i) Có tính chất côn đồ; 

    k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân”. 

    Nếu người con của ông Thái thỏa mãn điều kiện trên thì con của ông Thái có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Khoản 1Điều 134 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sun g 2017. Theo đó, con của ông Thái có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

    Nếu không đủ yếu tố đê truy cứu trách nhiệm hình sự thì con của ông Thái sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính. Cụ thể, Khoản 2Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP quy định về vi phạm quy định về trật tự công cộng như sau:

    “2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời”;

    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác”.

    Theo thông tin bạn cung cấp: 2 anh con trai của ông Khái thì một anh tát chị Tám vợ của anh tuấn 3 cái còn anh khác thì tát vào đầu bà liệu 1 cái khiến bà choáng ngã ra đường. Do vậy, 2 người con của ông Khái tùy theo mức độ nghiêm trọng và thiệt hại gây nên cho người bị hại mà chịu trách nhiệm hành chính hoặc trách nhiệm hình sự.

    Như vậy, trong trường hợp của bạn, bạn gửi đơn tố cáo, tố giác lên cơ quan công an xã sẽ được giải quyết theo quy định.

  • Xem thêm     

    23/10/2018, 11:46:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Đã trả lời

  • Xem thêm     

    23/10/2018, 11:44:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như bạn trình bày thì 2 vợ chồng đó đã tự ý vào nhà bạn và đòi nợ và họ đã có hành vi bạo lực với bạn với lý do mẹ bạn vay tiền không trả, người vợ thì đánh còn chồng thì ôm giữ bạn không cho đánh trả, kế tiếp là giựt cái điện thoai iphone trị giá hơn 10 triệu đồng. Như vậy, hai vợ chồng họ đã có dấu hiệu cấu thành Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017: 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

    g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    h) Tái phạm nguy hiểm.”

    Như vậy, bạn phải có Đơn tố cáo, trình báo, cơ quan công an xã, phường hoặc cơ quan điều tra cấp quận huyện sẽ tiến hành các biện pháp nghiệp vụ như: cho các nạn nhân giám định, lấy lời khai... để xử lý người có hành vi phạm theo quy định của pháp luật. Trường hợp bạn vẫn còn thắc mắc hãy liên lạc trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    23/10/2018, 11:42:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo như bạn trình bày thì 2 vợ chồng đó đã tự ý vào nhà bạn và đòi nợ và họ đã có hành vi bạo lực với bạn với lý do mẹ bạn vay tiền không trả, người vợ thì đánh còn chồng thì ôm giữ bạn không cho đánh trả, kế tiếp là giựt cái điện thoai iphone trị giá hơn 10 triệu đồng. Như vậy, hai vợ chồng họ đã có dấu hiệu cấu thành Tội cướp tài sản quy định tại Điều 168 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017: 1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu hoặc người không có khả năng tự vệ;

    g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    h) Tái phạm nguy hiểm.”

    Như vậy, bạn phải có Đơn tố cáo, trình báo, cơ quan công an xã, phường hoặc cơ quan điều tra cấp quận huyện sẽ tiến hành các biện pháp nghiệp vụ như: cho các nạn nhân giám định, lấy lời khai... để xử lý người có hành vi phạm theo quy định của pháp luật. Trường hợp bạn vẫn còn vướng mắc hãy liên lạc trực tiếp với chúng tôi để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    23/10/2018, 09:36:22 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Theo đểm d, khoản 1, Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng, pháp luật nghiêm cấm hành vi lợi dụng việc sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân. Tùy theo mức độ vi phạm, tính chất của hành vi mà người vi phạm sẽ bị xử lý như sau: 

    Về xử lý hành chính: Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 và khoản 3 Điều 66 Nghị định 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện thì người có hành vi “cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác” sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đống đến 10.000.000 đồng.

    Về xử lý hình sự: Theo quy định của pháp luật về tội vu khống được quy định tại điều Điều 156  Bộ luật hình sự năm 2015 như sau:

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

    a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

    b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

    .....”.

    Trong đó, hành vi bịa đặt được hiểu là việc tự nghĩ ra một điều gì đó mà không có thật đối với người khác để bôi nhọ, làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Còn hành vi loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt là trường hợp tuy người phạm tội không bịa đặt, nhưng lại loan truyền những thông tin mà mình biết rõ thông tin đó là do bịa đặt, không đúng sự thật. Việc loan truyền này có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: Sao chép làm nhiều bản gửi đi cho nhiều người qua message (tin nhắn), kể lại cho người khác nghe, đăng status (trạng thái), comment (lời bình) trên facebook...

    Về quyền nhân thân được bảo vệ theo Bộ luật Dân sự: Theo quy định tại Điều 34 Bộ luật Dân sự 2015 thì cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án bác bỏ thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của mình. Ngoài ra, cá nhân bị thông tin làm ảnh hưởng xấu đến danh dự nhân phảm, uy tín còn có quyền yêu cầu người đưa ra thông tin xin lỗi, cải chính công khai và bồi thương thiệt hại.

    Theo quy định ở trên thì bạn hoặc tổ chức công đoàn có thể tố cáo hoặc khởi kiện hành vi trên với các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để được xử lý theo quy định.

  • Xem thêm     

    19/10/2018, 06:02:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ theo điều 4 Thông tư 12/2010/TT-BCA  nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của công an cấp xã, phường thì Công An phường có thẩm quyền giải quyết vụ việc mất trộm nêu trên:

    Điều 4. Nắm tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tiếp nhận, phân loại, xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn xã

    1. Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà Công an xã phải nắm vững bao gồm những vấn đề chủ yếu sau đây:

    a) Tình hình hoạt động của các đối tượng có tiền án, tiền sự; người được đặc xá, tha tù trước thời hạn; người chấp hành xong hình phạt tù; bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án hoặc được hoãn, tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù hoặc được hưởng án treo; người phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cấm cư trú, quản chế, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân; người phải chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, trường giáo dưỡng nhưng được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành quyết định; người nghiện ma túy hoặc sau cai nghiện ma túy;

    b) Biểu hiện và hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; các hiện tượng tụ tập, gây rối trật tự công cộng, khiếu kiện đông người; chia rẽ, gây mất đoàn kết trong nhân dân; tổ chức, lôi kéo, kích động người khác chống lại chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; các vụ việc về chính trị, hình sự, kinh tế; các tệ nạn xã hội và vi phạm pháp luật khác xảy ra trên địa bàn xã;

    c) Tình hình biến động về dân cư và những người ở nơi khác đến cư trú, làm ăn, sinh sống trên địa bàn xã. Đối với xã biên giới, bờ biển, hải đảo, cần nắm vững tình hình xâm nhập, hoạt động và cư trú trái phép của người nước ngoài trên địa bàn xã;

    d) Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội xảy ra trong cơ quan, doanh nghiệp, trường học, tổ chức, đoàn thể ở cơ sở và tình hình khác có liên quan đến công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đề xuất biện pháp khắc phục.

    2. Các tin tức, vụ việc về an ninh, trật tự, an toàn xã hội đều phải được thẩm tra, xác minh, phân loại để có biện pháp xử lý thích hợp:

    a) Trường hợp hành vi vi phạm chưa đến mức phải xử lý bằng biện pháp pháp luật thì phải nhắc nhở, giải thích, giáo dục người có hành vi vi phạm, giúp họ có ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng đạo đức xã hội và quy định của địa phương;

    b) Trường hợp hành vi vi phạm đến mức phải xử lý vi phạm hành chính, nếu hành vi vi phạm đó thuộc thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Trưởng Công an xã thì tiến hành xử phạt; trường hợp vượt quá thẩm quyền xử phạt của Trưởng Công an xã thì chuyển hồ sơ vi phạm lên cấp có thẩm quyền để xử phạt theo quy định; trường hợp người thực hiện hành vi vi phạm thuộc đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính khác thì lập hồ sơ chuyển lên cấp có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật;

    c) Trường hợp hành vi vi phạm có dấu hiệu tội phạm thì lập hồ sơ ban đầu, lấy lời khai người bị hại, người biết việc, tổ chức cấp cứu nạn nhân, bảo vệ hiện trường (nếu có), thu giữ, bảo quản hiện vật, phương tiện vi phạm theo quy định của pháp luật và báo ngay cho cơ quan Công an cấp trên để có biện pháp xử lý kịp thời;

    d) Trường hợp tụ tập đông người, gây rối trật tự công cộng hoặc những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự, vượt quá thẩm quyền và khả năng giải quyết của Công an xã thì phải tham mưu cho Ủy ban nhân dân cùng cấp có biện pháp xử lý phù hợp, không để tình hình phức tạp thêm, đồng thời phải báo ngay cho Công an cấp trên để có biện pháp xử lý thích hợp.

    3. Tình hình an ninh, trật tự và các vụ việc, tin tức thu nhận được có liên quan đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội đều phải lưu vào hồ sơ theo đúng quy định và hướng dẫn của Công an cấp trên. Những thông tin quan trọng phải báo cáo Ủy ban nhân dân cùng cấp và Công an cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo

    Về thời hạn giải quyết đơn thư tố giác tội phạm, tin báo về tội phạm được quy định tại Điều 147 Bộ Luật Tố tụng hình sự 2004, cụ thể như sau:

    Điều 147. Thời hạn, thủ tục giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

    1. Trong thời hạn 20 ngày kể từ ngày nhận được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải kiểm tra, xác minh và ra một trong các quyết định:

    a) Quyết định khởi tố vụ án hình sự;

    b) Quyết định không khởi tố vụ án hình sự;

    c) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.

    2. Trường hợp vụ việc bị tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn giải quyết tố giác, tin báo, kiến nghị khởi tố có thể kéo dài nhưng không quá 02 tháng. Trường hợp chưa thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh trong thời hạn quy định tại khoản này thì Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền có thể gia hạn một lần nhưng không quá 02 tháng.

    Chậm nhất là 05 ngày trước khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại khoản này, Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền gia hạn thời hạn kiểm tra, xác minh.

    3. Khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan có thẩm quyền có quyền tiến hành các hoạt động:

    a) Thu thập thông tin, tài liệu, đồ vật từ cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để kiểm tra, xác minh nguồn tin;

    b) Khám nghiệm hiện trường;

    c) Khám nghiệm tử thi;

    d) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.

    4. Trình tự, thủ tục, thời hạn Viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố được thực hiện theo quy định tại Điều này.

    Để vụ việc được giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, bạn nên trình bày rõ với cơ quan công an xã, phường nơi xảy ra sự việc những điều khẳng định nghi ngờ của bạn và những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của người bị nghi ngờ. Những chứng cứ này sẽ rút ngắn thời gian điều tra vụ án​. Căn cứ vào thời hạn giải quyết tin tố giác tôi phạm nêu trên bạn có thể xác định cơ quan Công An có tiến hành xử lý kịp thời sự việc mà bạn báo không.  Nếu nhận thấy không được các cán bộ công an giải quyết, bạn nên nộp đơn tố cáo đến các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết. 

    Đối với việc mất trộm tài sản phải làm gì thì chúng tôi chỉ có thể khuyên bạn đầu tiên là báo cơ quan công an ở địa bạn bạn bị mất xe máy ngay lập tức. Hoàn thiện các thủ tục giấy tờ và chờ ngày xe bạn trở về. Tuy nhiên thực trạng trộm cắp xe máy rất nhiều và không phải công an khu vực nào cũng có nghiệp vụ tốt, tận tình tìm kiếm xe của bạn. Và như thế thì mất xe máy có tìm lại được không còn là một câu hỏi lớn và không ai dám chắc chắn rằng sẽ tìm được dù đã báo với cơ quan có thẩm quyền.

  • Xem thêm     

    19/10/2018, 04:57:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi giải đáp như sau:

    Thủ tục giám định thương tật của Cơ quan tiến hành tố tụng:

    Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định về trưng cầu giám định như sau:

    Điều 205. Trưng cầu giám định

    1. Khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 206 của Bộ luật này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.

    2. Quyết định trưng cầu giám định có các nội dung:

    a) Tên cơ quan trưng cầu giám định; họ tên người có thẩm quyền trưng cầu giám định;

    b) Tên tổ chức; họ tên người được trưng cầu giám định;

    c) Tên và đặc điểm của đối tượng cần giám định;

    d) Tên tài liệu có liên quan hoặc mẫu so sánh gửi kèm theo (nếu có);

    đ) Nội dung yêu cầu giám định;

    e) Ngày, tháng, năm trưng cầu giám định và thời hạn trả kết luận giám định.

    3. Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định trưng cầu giám định, cơ quan trưng cầu giám định phải giao hoặc gửi quyết định trưng cầu giám định, hồ sơ, đối tượng trưng cầu giám định cho tổ chức, cá nhân thực hiện giám định; gửi quyết định trưng cầu giám định cho Viện kiểm sát có thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra”.

    Điều 206. Các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định

    Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định:

    1. Tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ; tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc bị hại khi có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức, khả năng khai báo đúng đắn về những tình tiết của vụ án;

    2. Tuổi của bị can, bị cáo, bị hại nếu việc đó có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án và không có tài liệu để xác định chính xác tuổi của họ hoặc có nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;

    3. Nguyên nhân chết người;

    4. Tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;

    5. Chất ma tuý, vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, tiền giả, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý, đồ cổ;

    6. Mức độ ô nhiễm môi trường”.

    Điều 209. Tiến hành giám định

    1. Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định.

    Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết.

    2. Việc giám định do cá nhân hoặc do tập thể thực hiện”.

    Theo quy định trên thì bạn có quyền yêu cầu các Cơ quan tiến hành tố tụng giám định thương tật cho mẹ bạn bằng cách bạn sẽ làm đơn trình báo gửi lên Cơ quan công an cấp quận ( huyện ) nơi xảy ra tội phạm để yêu cầu họ điều tra xác minh và đưa mẹ bạn đi giám định. Nếu trong trường hợp tỉ lệ thương tật đủ cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự thì Cơ quan điều tra sẽ ra quết định khởi tố vụ án.

    Về thành phần tham gia giám định:

    Khoản 1 Điều 209 BLTTHS 2015 quy định như sau:

    “Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định trưng cầu, yêu cầu giám định.

    Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định có thể tham dự giám định nhưng phải báo trước cho người giám định biết”.

    Như vậy, theo quy định trên thì thành phần tham gia giám định có thể tham dự bao gồm: Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, người yêu cầu giám định, cơ quan tiến hành giám định, người được giám định.

    Về thời hạn giám định:

    Điều 208 BLTTHS 2015 quy định về thời hạn giám định như sau:

    “1. Thời hạn giám định đối với trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định:

    a) Không quá 03 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của Bộ luật này;

    b) Không quá 01 tháng đối với trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 6 Điều 206 của Bộ luật này;

    c) Không quá 09 ngày đối với trường hợp quy định tại các khoản 2, 4 và 5 Điều 206 của Bộ luật này.

    2. Thời hạn giám định đối với các trường hợp khác thực hiện theo quyết định trưng cầu giám định.

    3. Trường hợp việc giám định không thể tiến hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì tổ chức, cá nhân tiến hành giám định phải kịp thời thông báo bằng văn bản, nêu rõ lý do cho cơ quan trưng cầu, người yêu cầu giám định.

    4. Thời hạn giám định quy định tại Điều này cũng áp dụng đối với trường hợp giám định bổ sung, giám định lại.

    Khoản 2 Điều 21 Luật giám định tư pháp 2012 quy định về quyền, nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp như sau:

    “2. Người trưng cầu giám định có nghĩa vụ:

    a) Lựa chọn tổ chức hoặc cá nhân thực hiện giám định phù hợp với tính chất, yêu cầu của vụ việc cần giám định;

    b) Ra quyết định trưng cầu giám định bằng văn bản;

    c) Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp;

    d) Tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi trưng cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định;

    đ) Bảo đảm an toàn cho người giám định tư pháp trong quá trình thực hiện giám định hoặc khi tham gia tố tụng với tư cách là người giám định tư pháp”.

    Và Điều 36 Luật giám định tư pháp quy định về chi phí giám định tư pháp như sau:

    “Người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp”.

    Dựa vào căn cứ trên thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi trưng cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định. Tuy nhiên, theo thông tin bạn cung cấp thì chi phí giám định do mẹ bạn chi trả, theo đó đã vi phạm nghĩa vụ của người trưng cầu giám định tư pháp.

    Điều 470 BLTTHS 2015 quy định về các quyết định, hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại như sau:

    “1. Quyết định tố tụng có thể bị khiếu nại là các quyết định của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra được ban hành theo quy định của Bộ luật này.

    2. Hành vi tố tụng có thể bị khiếu nại là hành vi được thực hiện trong hoạt động tố tụng của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Thẩm tra viên, người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được thực hiện theo quy định của Bộ luật này”.

    Như vậy, căn cứ vào quy định trên, bạn có thể là đơn khiếu nại về các vi phạm với cơ quan tiến hành tố tụng.

  • Xem thêm     

    18/10/2018, 10:41:07 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi giải đáp như sau:

    Điều 466 BLDS 2015 quy định về nghĩa vụ trả nợ của bên vay như sau:

    “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    2. Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

    3. Địa điểm trả nợ là nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    4. Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.

    5. Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:

    a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;

    b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”

    Trong trường hợp bạn thực hiện việc trả nợ theo đúng thỏa thuận của hợp đồng thì bạn đã thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ của bên vay, do đó, nếu bên công ty gửi đơn báo Công an thì cũng không tiến hành xử lý bạn được vì không có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự ở đây.

    Nếu khi đến kỳ hạn mà bạn không trả đúng theo hợp đồng vay tài sản thì Tòa án có thể tiếp nhận đơn khởi kiện của công ty và tiến hành khởi kiện về việc kiện đòi tài sản (Theo Điều 166 BLDS 2015).

    Như vậy, cách tốt nhất là bạn nên thỏa thuận lại với công ty về việc trả khoản nợ của mình.

  • Xem thêm     

    16/10/2018, 10:38:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Với câu hỏi trên, chúng tôi tư vấn như sau:

    Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định về tài sản chung của vợ chồng như sau:

    “1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

    Nếu bạn chứng minh được trong giai đoạn chưa ly hôn, khoản tiền mà chồng bạn đánh bạc có được không dùng  cho việc đảm bảo nhu cầu của gia đình mà được dùng cho mục đích riêng của chồng bạn thì khoản nợ đó chồng bạn phải trả và phải chuộc chiếc xe Alizabeth về. Còn nếu khoản tiền đó dùng cho việc dáp ứng nhu cầu của gia đình thì cả hai vợ chồng phải liên đới trả khoản nợ và chuộc chiếc xe Alizabeth về.    

    Trong trường hợp chiếc xe của bạn chưa được chuộc về:

    Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:

    “1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm: 

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; 

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản…”

    Trong trường hợp xe cúp 50 có giá trị từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội xâm phạm sở hữuquy định chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc chiếc xe là phương tiện kiếm sống chính của bạn thì chồng bạn có thể bị truy cứu về tội lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Nếu hành vi chiếm đoạt tài sản không thuộc trường hợp trên thì chồng bạn có thể sẽ bị xử phạt hành chính theo Nghị định số 167/2013/NĐ-CP như sau:

    “Điều 15. Vi phạm quy định về gây thiệt hại đến tài sản của người khác

    1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Trộm cắp tài sản;

    b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác;

    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác;

    d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác”.

    Như vậy, bạn nên làm đơn tố cáo hoặc tố giác hành vi vi phạm pháp luật đến cơ quan công an nơi xảy ra tội phạm hoặc nơi phát hiện tội phạm hoặc nơi người có hành vi vi phạm cư trú để tố giác về hành vi lừa đảo này. Theo đó, bạn làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan công an Huyện hóc môn. Chồng bạn có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chiếm đoạt tài sản.

    Khoản 1 Điều 322 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc như sau:

    “1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: 

    a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; 

    b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên; 

    c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên; 

    d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc; 

    đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.”

    Nếu tiệm bắn cá đó thuộc trường hợp quy định ở trên thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tổ chức đánh bạc được quy định tại Khoản 1 Điều 322 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017.

    Nếu hành vi tổ chức đánh bạc không đủ điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự thì tiệm bắn cá có thể bị xử phạt hành chính. Cụ thể, Điều 26 Nghị định 167/2013/NĐ – CP  quy định về hành vi đánh bạc trái phép như sau:

    “1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng đối với hành vi mua các số lô, số đề.

    2.  Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi đánh bạc sau đây:

    a)Đánh bạc trái phép bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật;

    b)Đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép;

    c)Cá cược bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác;

    d)Bán bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề.

    3.  Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a)Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác;

    b)Che giấu việc đánh bạc trái phép.

    4.  Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với một trong những hành vi tổ chức đánh bạc sau đây:

    a)Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc trái phép;

    b)Dùng nhà, chỗ ở của mình hoặc phương tiện, địa điểm khác để chứa bạc;

    c)Đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép;

    d)Tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền trái phép.

    ……

    6.  Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính và tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có đối với hành vi quy định tại Khoản 1; Khoản 2; Điểm a Khoản 3; Điểm b, c, d Khoản 4 và Khoản 5 Điều này...”

    Như vậy, tiệm bắn cá có thể bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi tổ chức đánh bạc theo Khoản 4 Điều 26 Nghị định 163/2013/NĐ-CP. Theo đó, tiệm bắn cá sẽ bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

    Trường hợp xe của bạn đã được chuộc về:

    Vì xe bạn được chồng bạn chuộc về nên chồng bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, bạn có thể làm đơn tố cáo gửi đến cơ quan công an nơi có tiệm bán cá để tố giác hành vi tổ chức đánh bạc của tiệm bắn cá này.

  • Xem thêm     

    15/10/2018, 04:35:36 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Trường hợp của bạn phạm tội là tội ít nghiêm trọng và đã bị tạm giam thì vẫn có thể được hưởng án treo nếu có đủ điều kiện nói trên, tuy nhiên, Tòa án chỉ cho người đó hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù.

  • Xem thêm     

    15/10/2018, 10:58:18 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    thanhtungrcc
    thanhtungrcc
    Top 50
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:28/08/2008
    Tổng số bài viết (1518)
    Số điểm: 8647
    Cảm ơn: 8
    Được cảm ơn 1066 lần


    Căn cứ vào Điều 463 Bộ luật dân sự 2015 có quy định về Hợp đồng vay tài sản như sau:

    “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định.”

    Ngoài ra, tại Điều 466 Bộ luật dân sự quy định Nghĩa vụ trả nợ của bên vay:

    “1. Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.
    2. Trong trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.”
    Theo quy định trên, bên cho vay sẽ có nghĩa vụ trả nợ trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Khi bên vay không có khả năng thanh toán nợ thì bên cho vay có quyền gửi đơn khởi kiện về việc đòi lại tài sản đến Tòa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư trú để được giải quyết. Tuy nhiên, đối với trường hợp này, khi bên vay không có bất kỳ một tài sản nào để có thể thanh toán khoản nợ vay thì bên cho vay sẽ phải chịu rủi ro trong trường hợp này.

    Trường hợp có đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ Luật Hình sự thi bên vay sẽ bị áp dụng biện pháp chế tài như sau:
    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

    b) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

    4. Phạm tội chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

    Người vay có phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay không sẽ do cơ quan điều tra xác minh, làm rõ có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay không. Bên vay phải có nghĩa vụ trách nhiệm trả nợ.

25 Trang «<13141516171819>»