Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    19/09/2012, 01:44:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định của pháp luật thì hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: Vợ, chồng, Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Do vậy, nếu cha mẹ bạn qua đời không để lại di chúc thì Di sản sẽ được chia đều cho các thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất nêu trên.

    Tuy nhiên, thời hiệu khởi kiện tranh chấp về quyền thừa kế chí có 10 năm kể từ ngày người có di sản chết. Nếu cha, mẹ bạn chết chưa quá 10 năm thì bạn mới có thể khởi kiện yêu cầu chia thừa kế theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    19/09/2012, 01:38:03 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào Bạn!

    Nếu bạn vay nợ không có giấy tờ thì chưa đủ căn cứ để Tòa án thụ lý vụ án dân sự. Bạn có thể trình báo công an về sự việc đó để được giải quyết. Nếu người vay thừa nhận sự việc đang nợ tiền bạn (tại cơ quan công an) và công an xác định không có dấu hiệu phạm tội thì bạn mới có căn cứ để khởi kiện dân sự.

  • Xem thêm     

    19/09/2012, 01:34:06 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu giải mạo chữ ký để chiếm đoạt tài sản sẽ bị xử lý về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Trường hợp giả mạo chữ ký như bạn nêu chưa đến mức xử lý hình sự. Bạn chỉ có thể yêu cầu xử lý hành chính đối với hành vi giả mạo chữ ký đó. 

  • Xem thêm     

    19/09/2012, 12:56:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi được pháp luật quy định như sau:

    I. Quy định của bộ luât dân sự hiện hành:

     

    Ðiều 604. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại

    1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.

    2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.

    Ðiều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

    1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

    3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

    II. Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định:

    "1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại

                Theo quy định tại Điều 604 Bộ luật dân sự năm 2005 (sau đây gọi tắt là BLDS), về nguyên tắc chung thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau đây:

                1.1. Phải có thiệt hại xảy ra.

                Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.

                a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS.

                b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.

                Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.

                1.2. Phải có hành vi trái pháp luật.

                Hành vi trái pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật.

                1.3. Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật. Thiệt hại xảy ra phải là kết quả tất yếu của hành vi trái pháp luật và ngược lại hành vi trái pháp luật là nguyên nhân gây ra thiệt hại.

                1.4. Phải có lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý của người gây thiệt hại.

                a) Cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không mong muốn, nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra.

                b) Vô ý gây thiệt hại là trường hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được.

                Cần chú ý là đối với trường hợp pháp luật có quy định việc bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, thì trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại trong trường hợp này được thực hiện theo quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.

                2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

                2.1. Khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cần phải thực hiện đúng nguyên tắc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 605 BLDS. Cần phải tôn trọng thoả thuận của các bên về mức bồi thường, hình thức bồi thường và phương thức bồi thường, nếu thoả thuận đó không trái pháp luật, đạo đức xã hội.

    2.2. Trong trường hợp các bên không thoả thuận được thì khi giải quyết tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cần chú ý:

                a) Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ, có nghĩa là khi có yêu cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khoẻ, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm phải căn cứ vào các điều luật tương ứng của BLDS quy định trong trường hợp cụ thể đó thiệt hại bao gồm những khoản nào và thiệt hại đã xảy ra là bao nhiêu, mức độ lỗi của các bên để buộc người gây thiệt hại phải bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.

                b) Để thiệt hại có thể được bồi thường kịp thời, Toà án phải giải quyết nhanh chóng yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật định. Trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của pháp luật tố tụng để giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự.

                c) Người gây thiệt hại chỉ có thể được giảm mức bồi thường khi có đủ hai điều kiện sau đây:

                - Do lỗi vô ý mà gây thiệt hại;

                - Thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hoàn cảnh kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ không thể có khả năng bồi thường được toàn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó.

                d) Mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với thực tế, có nghĩa là do có sự thay đổi về tình hình kinh tế, xã hội, sự biến động về giá cả mà mức bồi thường đang được thực hiện không còn phù hợp trong điều kiện đó hoặc do có sự thay đổi về tình trạng thương tật, khả năng lao động của người bị thiệt hại cho nên mức bồi thường thiệt hại không còn phù hợp với sự thay đổi đó hoặc do có sự thay đổi về khả năng kinh tế của người gây thiệt hại..."

  • Xem thêm     

    19/09/2012, 12:44:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chúc bạn may mắn!

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 05:06:15 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự là nơi bị đơn cư trú, làm việc (Điều 35, Điều 36 BLTTDS). Nếu vụ án có yếu tố nước ngoài thì thẩm quyền mới thuộc Tòa án cấp tỉnh.

    Sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế, buộc bên vay tiền phải trả nợ cho bạn.

    Theo quy định của pháp luật hiện hành thì chỉ có cơ quan thi hành án là tổ chức duy nhất có quyền cưỡng chế, buộc bên vay phải trả nợ trong các vụ việc dân sự. Nếu bạn không khởi kiện mà tự động cưỡng bức người vay để đòi nợ thì bạn sẽ phạm tội hình sự. 

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 04:08:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì rất có thể người điều khiển xe máy có lỗi do không làm chủ được tốc độ. Nếu mẹ bạn sang đường tại điểm cho phép sang đường thì không có lỗi gì cả. Vụ việc trên tốt nhất là hai bên nên thương lượng hòa giải với nhau. Nếu không được thì một trong hai bên có thể khởi kiện đến Tòa án để xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

    Nếu mẹ bạn đột ngột băng qua đường tại nơi cấm sang đường, thiếu quan sát... gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị xử lý về tội cản trở giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 203 BLHS (hành vi khác cản trở giao thông đường bộ).

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 12:59:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Với tội trộm cắp tài sản thì dù gia đình nạn nhân không có đơn hoặc có đơn bãi nại thì vụ việc vẫn được giải quyết theo pháp luật (không thuộc trường hợp quy định tại Điều 105 BLTTHS).

    Nếu người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và đơn xin giảm trách nhiệm hình sự (giảm hình phạt) cho bị cáo thì Tòa án sẽ cân nhắc để giảm nhẹ hình phạt khi lượng hình.

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 12:53:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu ông ta là luật sư thì bạn càng lên làm đơn tố cáo. Bạn có chứng cứ về việc chuyển tiền qua ngân hàng, có người làm chứng nên không thể vu cho bạn phạm tội vu khống được. Đã là luật sư còn "lách luật" để vi phạm pháp luật thì càng phải nghiêm trị. Nếu là luật sư thật thì không ai bán danh của mình để lấy 30trđ như vậy.

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 12:45:52 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Chính sách, pháp luật về đất đai ở nước ta qua mỗi thời kỳ đều có những quy định khác nhau...Thời kỳ những năm 80, dầu những năm 90 việc cơ quan chia đất cho cán bộ, công nhân viên làm nhà ở diễn ra phổ biến... mặc dù thời điểm đó việc chia đất, phân đất như vậy có thể là chưa đúng với pháp luật. Tuy nhiên, những người được chia đất, phân đất đó (thậm chí lấn chiếm...) sử dụng liên tục, ổn định, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì vẫn được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất (Công nhận việc phân đất của cơ quan hoặc coi như việc sử dụng đất hoang...).

    Đối với trường hợp của gia đình bạn: Theo thông tin bạn nêu trên thì có căn cứ để xác định bố bạn được chính quyền giao cho 180m2 đất để làm nhà ở. Diện tích đất còn lại chưa đủ căn cứ để xác định là được cơ quan quản lý đất đai giao đất. Tuy nhiên, nếu các thời kỳ đo đạc lại bản đồ địa chính sau khi gia đình bạn sử dụng mà có đo diện tích thực tế sử dụng của gia đình bạn vào một thửa đất riêng (không đo vào đất cơ quan..) sau đó gia đình bạn sử dụng liên tục, ổn định, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và đã được cấp GCN QSD đất thì việc khiếu kiện của những người dân kia là không có căn cứ.

    Để giải quyết vụ việc đó, cần phải thu thập chứng cứ, tài liệu thể hiện nguồn gốc đất thông qua hồ sơ địa chính của cơ quan quản lý đất đai và xem lại thủ tục cấp GCN QSD đất cho bố bạn. Bạn cũng có thể cung cấp thêm thông tin về vụ việc này tới Website: http://luatsuchinhphap.hanoi.vn  để được luật sư giải đáp cụ thể .

  • Xem thêm     

    18/09/2012, 12:28:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Trước tiên gia đình bạn cần tiếp tục cứu chữa cho cháu bé và yêu cầu người gây tai nạn phải bồi thường trước tiền viện phí, thuốc men... Sau khi con bạn đã được chữa trị ổn định thì gia đình bạn cần yêu cầu gia đình kia bồi thường thiệt hại (do nguồn nguy hiểm gây ra), thiệt hại bao gồm: Tiền viện phí, thuốc men; Tiền trả cho người chăm sóc trong thời gian chữa trị; Tiền bồi dưỡng sau khi ra viện; Tiền tổn thất về tinh thần... theo quy định của Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 8/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao.

              Nếu người gây tai nạn không đồng ý bồi thường với mức thiệt hại mà bạn đưa ra thì gia đình bạn có thể khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại (ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra).

               Gia đình bạn cũng có thể yêu cầu công an trưng cầu giám định tỷ lệ thương tật đối với con bạn. Nếu tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên thì người gây tai nạn sẽ bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 202 BLHS.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 03:22:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu người đó nhận tiền để xin việc cho bạn nhưng không xin được việc và cũng không trả lại tiền thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bạn có thể làm đơn trình báo toàn bộ sự việc trên tới công an hoặc cơ quan người đó để được xem xét, giải quyết theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 03:17:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn của bạn đã có hành vi trộm cắp tài sản và sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 138 BLHS, hình phạt được quy định như sau:

    "Điều 138. Tội trộm cắp tài sản

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.".

    Như vậy, với tài sản trộm cắp trị giá 30trđ thì phạm tội thuộc khoản 1 Điều 138 BLHS. Nếu trong quá trình điều tra xác định hành vi phạm tội là có tổ chức thì sẽ bị xử lý ở khoản 2, Điều 138 BLHS. Bạn của bạn là người thực hành nên hình phạt sẽ thấp hơn người đầu vụ (chủ mưu, cầm đầu). Cụ thể hình phạt của các bị cáo là bao nhiêu còn căn cứ vào nhân thân của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 46 và Điều 48 BLHS. Để được đảm bảo quyền lợi tốt nhất cho bạn đó, tránh oan sai thì gia đình nên mời luật sư tham gia vụ án.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 02:42:44 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu một tài sản mà mang đi thực hiện nhiều giao dịch một lúc thì có thể bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bạn có thể gửi đơn trình báo sự việc trên với công an để được xem xét, giải quyết.

    Nếu sau khi giải quyết mà công an xác định chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự thì bạn vẫn có thể khởi kiện một vụ án dân sự để yêu cầu phạt cọc theo thỏa thuận đặt cọc đó. Những người ký vào hợp đồng đặt cọc sẽ phải liên đới chịu trách nhiệm với giao dịch đó.

    Trong quá trình giải quyết vụ việc bạn vẫn phải yêu cầu bên bán tiếp tục thực hiện thỏa thuận đặt cọc đó. Nếu đến thời điểm thực hiện việc mua bán mà họ vẫn không xuất trình sổ đỏ để thực hiện giao dịch thì họ vi phạm thỏa thuận đặt cọc. Nếu nay bạn tuyên bố không mua nữa thì bạn sẽ không đòi lại được tiền cọc, trừ trường hợp việc đặt cọc đó là vô hiệu.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 01:52:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    GCN QSD đất của vợ chồng bạn cấp trong thời kỳ hôn nhân đứng tên hai vợ chồng nên theo quy định pháp luật là tài sản chung vợ chồng. Nếu GCN QSD đất đó cấp sai, không đúng pháp luật và bị hủy bỏ thì bạn mới không được chia tài sản.

    Nếu thửa đất đó có nguồn gốc là bố mẹ chồng để lại mà không có di chúc cho vợ chồng bạn, không có văn bản thỏa thuận phân chia thừa kế cho vợ chồng bạn được toàn quyền sử dụng thì GCN QSD đất cấp cho vợ chồng bạn là không đúng pháp luật (Bạn không thuộc hàng chừa kế nào của bố,mẹ chồng theo pháp luật).

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 01:45:34 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu vụ việc của bạn đã có quyết định đình chỉ điều tra, thu hồi quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can thì vụ việc kết thúc, bạn sẽ không bị xử lý hình sự nữa.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 01:42:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu muốn đơn phương ly hôn thì bạn cần có CMND, Hộ khẩu, Đăng ký kết hôn... nếu không có những giấy tờ trên thì bạn cần làm đơn gửi tới UBND xã và Công an cấp xã để xin xác nhận về nơi cư trú của bạn và của chồng bạn thì Tòa án mới có căn cứ thụ lý, giải quyết. Tòa án nơi chồng bạn cư trú là nơi có thẩm quyền giải quyết ly hôn trong trường hợp của bạn.

  • Xem thêm     

    17/09/2012, 01:39:03 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

     Theo điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:  Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”.

    Như vậy, bạn là con đẻ của "ông ấy" nên thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định pháp luật. Nếu sau này "ông ấy" chết đi mà không để lại di chúc hoặc di chúc không hợp pháp thì bạn cùng với vợ và các con đẻ khác của "ông ấy" được thừa kế di sản do "ông ấy" để lại theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    16/09/2012, 09:55:44 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Việc cho người khác nhập hộ khẩu vào hộ khẩu của gia đình mình hầu như không có ảnh hưởng gì đến việc sở hữu tài sản  của gia đình. Việc cắt, chuyển hộ khẩu cũng không làm mất quyền sở hữu tài sản. Về mặt pháp lý thì hộ khẩu thường trú chỉ là căn cứ xác định nơi cư trú hợp pháp của công dân. Theo quy định của Luật sư trú 2006 thì nơi cư trú có thể là nơi ở thuê, ở nhờ... một cách hợp pháp. Do vậy, bạn cứ yên tâm về việc nhập hộ khẩu đó.

    Bạn chỉ lưu ý là với những nhà đất chưa có GCN QSD đất, nguồn gốc là đất khai hoang hoặc Hộ gia đình đó sắp được chính quyền địa phương giao đất.. thì người có tên trong hộ khẩu mới có cơ hội phát sinh quyền lợi. Còn nhà đất đã có giấy chứng nhận thì việc nhập thêm khẩu vào nhà đất đó không ảnh hưởng đến quyền sở hữu tài sản.

  • Xem thêm     

    16/09/2012, 09:18:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Như vậy, bạn hoặc ba bạn có thể gửi đơn trình báo toàn bộ sự việc tới công an để được xem xét giải quyết.

    Trong đơn cần nêu rõ quan hệ giữa bạn với người mượn xe, loại xe, thời điểm cho mượn xe, lý do mượn xe, thời điểm phát hiện xe bị cầm cố, thời điểm phát hiện người mượn xe bỏ trốn và quá trình làm việc với gia đình họ...