Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    15/10/2012, 09:41:41 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Hành vi của bạn đó chưa đến mức phải xử lý hình sự. Nếu sự việc phức tạp khiến đơn thư kiện cáo, bức xúc ảnh hưởng đến dư luận xã hội thì bạn đó có thể bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự. Sau khi bị xử lý hành chính còn cố tình vi phạm mới bị xử lý hình sự...

  • Xem thêm     

    15/10/2012, 09:38:40 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Với mảnh đất thứ nhất là đất của bố mẹ bạn tạo lập trước khi mẹ bạn lấy Dượng nên có căn cứ để xác định đó là tài sản riêng của mẹ bạn, đồng thời Dượng bạn không có quyền đối với việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản đó.

            Nếu mảnh đất đó vẫn nguyên trạng, Dượng bạn không đóng góp công sức duy trì, tu tạo đất hoặc không xây dựng trên phần đất đó thì Dượng bạn không có quyền sở hữu đối với tài sản đó (tài sản riêng của mẹ bạn trước hôn nhân với Dượng bạn). 

             Nếu nhà đất có tên của Dượng bạn hoặc Nhà đất đứng tên mẹ bạn nhưng Dượng bạn đang sinh sống trên thửa đất đó hoặc xây nhà, trồng cây trên thửa đất đó thì việc chuyển nhượng bắt buộc phải có chữ ký của Dượng.

             Về mặt pháp lý thì việc chuyển nhượng thửa đất này không cần phải có chữ ký của Dượng bạn nếu có căn cứ xác định Dượng của bạn không có công sức đóng góp gì thêm vào thửa đất này trong thời kỳ hôn nhân với mẹ bạn.

            Với thửa đất mà "Bên nhà dượng tôi cũng viết giấy để lại đất cho tôi..." thì bạn chỉ được quyền chuyển nhượng thửa đất này nếu thửa đất đã sang tên của bạn.

            

  • Xem thêm     

    15/10/2012, 09:27:18 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi bổ sung ngày 29/3/2011 quy định:

     

    “Điều 176. Quyền yêu cầu phản tố của bị đơn

    1. Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện, bị đơn có quyền yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.

    2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

    b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập;

    c) Giữ yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn.

    3. Bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.”.

                Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì bạn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố để loại trừ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

              Tuy nhiên, nếu bạn có đơn yêu cầu phản tố thì bạn phải nộp tiền tạm ứng án phí. Trong vụ việc trên, nếu phần diện tích đất tranh chấp đã có GCN QSD đất đứng tên gia đình bạn và GCN QSD đất đó được cấp đúng pháp luật thì Tòa án sẽ bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và xác định phần đất đó là của gia đình bạn (bạn không cần phải có yêu cầu phản tố vẫn thắng kiện).

  • Xem thêm     

    15/10/2012, 08:17:35 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Nếu việc mua bán chuyển nhượng đã hoàn tất, hai bên đã tiến hành thủ tục tách thửa và hợp thửa theo quy định pháp luật thì yêu cầu của họ sẽ không được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận nếu có tranh chấp xảy ra.

            Nếu việc chuyển nhượng chưa hoàn tất thì vụ việc đó là tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Tòa án sẽ giải quyết theo quy định pháp luật (bạn tham khảo quy định tại Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao để biết thêm chi tiết).

             Gia đình của bạn chỉ phải mở lối đi cho nhà hàng xóm nếu đất của gia đình bạn bao bọc đất của gia đình hàng xóm, khiến họ không có lối đi. Khi đó gia đình hàng xóm đó được đi qua đất của gia đình bạn nhưng phải trả cho gia đình bạn một khoản tiền (Điều 275 BLDS năm 2005).

  • Xem thêm     

    14/10/2012, 10:34:10 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Về nguyên tắc thì đứa trẻ sinh ra trong thời kỳ hôn nhân (dù ly thân)  mặc nhiên là con chung của hai vợ chồng nên trong giấy khai sinh sẽ ghi tên mẹ và cha đẻ của đứa trẻ theo đăng ký kết hôn.

    Nếu người chồng không thừa nhận đứa trẻ đó là con thì tiến hành thủ tục giám định ADN và yêu cầu cán bộ hộ tịch thay đổi nội dung đăng ký khai sinh. Nếu có tranh chấp thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Nếu người nào đó muốn nhận đứa trẻ (do vợ người khác đẻ ra) là con mình thì phải có chứng cứ (giám định ADN). Nếu không có tranh chấp về con thì người đó có thể thực hiện thủ tục nhận cha con theo quy định tại Nghị định158/2005/NĐ-CP về quản lý và đăng ký hộ tịch. Nếu có tranh chấp thì một trong các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Nghị định158/2005/NĐ-CP:

    "Đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    Điều 32. Điều kiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    1. Việc nhận cha, mẹ, con theo quy định tại Mục này được thực hiện, nếu bên nhận, bên được nhận là cha, mẹ, con còn sống vào thời điểm đăng ký nhận cha, mẹ, con và việc nhận cha, mẹ, con là tự nguyện và không có tranh chấp.

    2. Người con đã thành niên hoặc người giám hộ của người con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự cũng được làm thủ tục nhận cha, mẹ theo quy định tại Mục này, trong trường hợp cha, mẹ đã chết; nếu việc nhận cha, mẹ là tự nguyện và không có tranh chấp.

    Điều 33. Thẩm quyền đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú của người nhận hoặc người được nhận là cha, mẹ, con thực hiện đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.

    Điều 34. Thủ tục đăng ký việc nhận cha, mẹ, con

    1. Người nhận cha, mẹ, con phải nộp Tờ khai (theo mẫu quy định). Trong trường hợp cha hoặc mẹ nhận con chưa thành niên, thì phải có sự đồng ý của người hiện đang là mẹ hoặc cha, trừ trường hợp người đó đã chết, mất tích, mất năng lực hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự.

    Kèm theo Tờ khai phải xuất trình các giấy tờ sau đây:

    a) Giấy khai sinh (bản chính hoặc bản sao) của người con;

    b) Các giấy tờ, đồ vật hoặc các chứng cứ khác để chứng minh quan hệ cha, mẹ, con (nếu có).

    2. Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ, nếu xét thấy việc nhận cha, mẹ, con là đúng sự thật và không có tranh chấp, thì ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký việc nhận cha, mẹ, con.

    Trường hợp cần phải xác minh, thì thời hạn nói trên được kéo dài thêm không quá 5 ngày.

    3. Khi đăng ký việc nhận cha, mẹ, con, các bên cha, mẹ, con phải có mặt, trừ trường hợp người được nhận là cha hoặc mẹ đã chết. Cán bộ Tư pháp hộ tịch ghi vào Sổ đăng ký việc nhận cha, mẹ, con và Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã ký và cấp cho mỗi bên một bản chính Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con. Bản sao Quyết định được cấp theo yêu cầu của các bên.

    Điều 35. Bổ sung, cải chính Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh của người con

    1. Căn cứ vào Quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con, ủy ban nhân dân cấp xã, nơi đã đăng ký khai sinh cho người con ghi bổ sung phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con, nếu phần khai về cha, mẹ trước đây để trống.

    Trong trường hợp Sổ đăng ký khai sinh đã chuyển lưu 1 quyển tại ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là ủy ban nhân dân cấp huyện), thì ủy ban nhân dân cấp xã thông báo cho ủy ban nhân dân cấp huyện để ghi tiếp việc bổ sung.

    2. Trong trường hợp phần khai về cha, mẹ trong Sổ đăng ký khai sinh và bản chính Giấy khai sinh của người con đã ghi tên người khác, không phải là cha, mẹ đẻ, thì đương sự phải làm thủ tục cải chính theo quy định tại Mục 7 Chương này. "

  • Xem thêm     

    14/10/2012, 10:23:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn cần đến nơi bạn cư trú để xin Giấy chuyển hộ khẩu, bản khai nhân khẩu và phiếu báo thay đổi hộ khẩu. Sau đó nộp kèm theo bản sao GCN QSH nhà ở và CMND + hộ khẩu cũ nộp cho Công an quận nơi bạn muốn nhập hộ khẩu để làm thủ tục nhập hộ khẩu theo quy định của Luật cư trú.

    Bạn tham khảo quy định của Luật cư trú sau đây:

     

    Điều 19. Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh

    Công dân có chỗ ở hợp pháp ở tỉnh nào thì được đăng ký thường trú tại tỉnh đó. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.

    Điều 20. Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương

    Công dân thuộc một trong những trường hợp sau đây thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương:

    1. Có chỗ ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ một năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản;

    2. Được người có sổ hộ khẩu đồng ý cho nhập vào sổ hộ khẩu của mình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con;

    b) Người hết tuổi lao động, nghỉ hưu, nghỉ mất sức, nghỉ thôi việc chuyển về ở với anh, chị, em ruột;

    c) Người tàn tật, mất khả năng lao động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi về ở với anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ;

    d) Người chưa thành niên không còn cha, mẹ hoặc còn cha, mẹ nhưng cha, mẹ không có khả năng nuôi dưỡng về ở với ông, bà nội, ngoại, anh, chị, em ruột, cô, dì, chú, bác, cậu ruột, người giám hộ;

    đ) Người thành niên độc thân về sống với ông, bà nội, ngoại;

    3. Được điều động, tuyển dụng đến làm việc tại cơ quan, tổ chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc theo chế độ hợp đồng không xác định thời hạn và có chỗ ở hợp pháp. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản;

    4. Trước đây đã đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương, nay trở về thành phố đó sinh sống tại chỗ ở hợp pháp của mình. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản.

    Điều 21. Thủ tục đăng ký thường trú

    1. Người đăng ký thường trú nộp hồ sơ đăng ký thường trú tại cơ quan công an sau đây:

    a) Đối với thành phố trực thuộc trung ương thì nộp hồ sơ tại Công an huyện, quận, thị xã;

    b) Đối với tỉnh thì nộp hồ sơ tại Công an xã, thị trấn thuộc huyện, Công an thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

    2. Hồ sơ đăng ký thường trú bao gồm:

    a) Phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; bản khai nhân khẩu;

    b) Giấy chuyển hộ khẩu theo quy định tại Điều 28 của Luật này;

    c) Giấy tờ và tài liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp. Đối với trường hợp chuyển đến thành phố trực thuộc trung ương phải có thêm tài liệu chứng minh thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 20 của Luật này.

    3. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này phải cấp sổ hộ khẩu cho người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

    Điều 28. Giấy chuyển hộ khẩu

    1. Công dân khi chuyển nơi thường trú thì được cấp giấy chuyển hộ khẩu.

    2. Giấy chuyển hộ khẩu được cấp cho công dân trong các trường hợp sau đây:

    a) Chuyển đi ngoài phạm vi xã, thị trấn của huyện thuộc tỉnh;

    b) Chuyển đi ngoài phạm vi huyện, quận, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương; thị xã, thành phố thuộc tỉnh.

    3. Thẩm quyền cấp giấy chuyển hộ khẩu được quy định như sau:

    a) Trưởng Công an xã, thị trấn cấp giấy chuyển hộ khẩu cho trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này;

    b) Trưởng Công an huyện, quận, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương, Trưởng Công an thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chuyển hộ khẩu cho trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều này.

    4. Hồ sơ cấp giấy chuyển hộ khẩu bao gồm sổ hộ khẩu và phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu.

    5. Trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải cấp giấy chuyển hộ khẩu cho công dân.

    Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được thông báo tiếp nhận của cơ quan quản lý cư trú nơi công dân chuyển hộ khẩu đến, Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi có người chuyển đi phải chuyển hồ sơ đăng ký, quản lý hộ khẩu cho Công an cùng cấp nơi người đó chuyển đến.

    6. Công dân thuộc một trong các trường hợp sau đây không phải cấp giấy chuyển hộ khẩu:

    a) Chuyển đi trong phạm vi xã, thị trấn của huyện thuộc tỉnh; chuyển đi trong cùng một huyện, quận, thị xã của thành phố trực thuộc trung ương; chuyển đi trong cùng một thị xã, thành phố thuộc tỉnh;

    b) Học sinh, sinh viên, học viên học tại nhà trường và cơ sở giáo dục khác;

    c) Đi làm nghĩa vụ quân sự, phục vụ có thời hạn trong Công an nhân dân;

    d) Được tuyển dụng vào Quân đội nhân dân, Công an nhân dân ở tập trung trong doanh trại hoặc nhà ở tập thể;

    đ) Chấp hành hình phạt tù; chấp hành quyết định đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, cơ sở cai nghiện ma tuý bắt buộc, quản chế. 

  • Xem thêm     

    14/10/2012, 09:39:39 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nội dung bạn hỏi được Luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:

     

    "Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa  thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa  thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa  thuận khác."

     

    Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì Tòa án sẽ giao con cho bạn nuôi dưỡng theo quy định tại đoạn 2, khoản 2, Điều 92 luật hôn nhân và gia đình nêu trên không phụ thuộc vào hoàn cảnh và thu nhập của bạn.

     

    - Chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con bạn cho đến khi con bạn trưởng thành, mức cấp dưỡng do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ quyết định căn cứ vào nhu cầu của con bạn và khả năng cấp dưỡng của chồng bạn.

    - Nếu chồng bạn cố tình không đến tòa án để giải quyết việc ly hôn thì Tòa án sẽ giải quyết ly hôn vắng mặt chồng bạn, thời gian giải quyết vụ án như vậy khoảng 5-6 tháng;

    - Sau khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực xác định bạn được nuôi con và chồng bạn có nghĩa vụ cấp dưỡng là chồng bạn không chấp hành bản án thì bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế, buộc chồng bạn phải chấp hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 10:00:10 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Bạn phải làm rõ "di chúc để đất thành đất hương hỏa" mà bạn nói là thế nào? Di chúc thành đất hương hỏa đó có hiệu lực pháp luật không? Đã được đăng ký làm đất thờ cúng, nhà thờ chi họ.. chưa? Nếu Di chúc hợp pháp và đã đăng ký chuyển quyền sử dụng đất từ đất của Ông Cố thành đất nhà thờ, đất đòng họ thì nhà đất đó là tài sản chung của chi, họ.

    - Nếu Di chúc để đất làm đất hương hỏa đó không có hiệu lực pháp luật thì phải xác định lại chủ sử dụng thửa đất đó. Nếu ông Cố đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất (Bằng khoán điền thổ; Chứng thư đoạn mại; Văn tự đoạn mại; GCN QSD đất tạm thời..) thì phải có sự thỏa thuận, thống nhất của các đồng sở hữu, đồng thừa kế thì người quản lý mới được nhận số tiền  bồi thường đó. Nếu không thống nhất được việc nhận tiền bồi thường thì số tiền đó sẽ chuyển vào kho bạc chờ cho đến khi nào gia đình thống nhất được việc nhận, sử dụng số tiền đó hoặc có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền xác định người có quyền hưởng số tiền đó;

    - Nếu nhà đất đó không có bất cứ giấy tờ gì về quyền sử dụng đất của các thế hệ trước, người đang sử dụng đất sử dụng ổn định theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 3 Nghị định số84/2007/NĐ-CP thì người đang sử dụng mới được nhận tiền bồi thường.

    - Nếu có giấy tờ chứng minh nhà đất đó là của ông Cố hoặc ông Nội nhưng ông cố, ông nội đã chết quá 10 năm thì không thể giải quyết việc chia tài sản theo luật thừa kế được (vì hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế). Nếu đủ điều kiện áp dụng Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 về chia tài sản chung thì mới chia tài sản chung. Nếu không đủ điều kiện chia tài sản chung và có tranh chấp thì số tiền đó sẽ "treo" tại kho bạc Nhà nước cho đến khi vụ việc được giải quyết.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 08:45:44 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Công an xã không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự, không có quyền phán quyết về vấn đề bồi thường. Công an xã chỉ giải quyết các mâu thuẫn, va chạm liên quan đến an ninh trật tự, an toàn xã hội... Họ có thể xử phạt hành chính hoặc lập hồ sơ để chuyển lên công an huyện xử lý hình sự. Việc công an xã trả lời bạn là đơn của bạn hết thời hiệu giải quyết là không đúng.

            Nếu bạn có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì bạn có thể gửi đơn khởi kiện tới Tòa án để được xem xét theo thủ tục tố tụng dân sự, thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là 2 năm kể từ ngày có thiệt hại xảy ra.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 08:37:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Theo quy định pháp luật thì cơ quan cấp GCN QSD đất có quyền sửa đổi, bổ sung, đính chính, thu hồi GCN QSD đất đã cấp nếu có căn cứ cho rằng việc cấp GCN QSD đất đó là trái pháp luật. Việc sửa đổi, thu hồi, hủy bỏ GCN QSD đất phải thực hiện thông qua quy trình thanh tra, kiểm tra và phải ra Quyết định hành chính. Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính đó hoặc khởi kiện theo quy định của Luật đất đai, Luật khiếu nại và Luật tố tụng hành chính hiện hành.

            Nếu UBND huyện thu hồi đất của bạn thì phải căn cứ vào quy định tại Điều 38 Luật đất đai năm 2003 và phải bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 08:32:06 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu kiểm tra thường xuyên mà không có quyết định, giấy giới thiệu thì trường bạn có thể khiếu nại về việc kiểm tra đó.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 08:27:56 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn tham khảo quy định về sức khỏe tham gia nghĩa vụ quân sự tại Thông tư liên tịch số Số: 36/2011/TTLT-BYT-BQP, ngày 17 tháng 10 năm 2011 của Bộ Y tế và Bộ quốc phòng Hướng dẫn việc khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự để được biết thông tin chi tiết.

     
       

     

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 04:43:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

     

    Ðiều 692 Bộ luật dân sự quy định:

    "Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

     Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai."

             Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký năm 2008 của gia đình bạn là hợp đồng viết tay, chưa có công chứng, chứng thực, chưa được sang tên nên chưa có hiệu lực pháp luật, chưa có giá trị pháp lý. Nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ không công nhận hợp đồng đó nếu hai bên không công chứng, chứng thực hợp đồng.

           Để đảm bảo an toàn pháp lý, tránh tranh chấp thì gia đình bạn phải ký lại hợp đồng chuyển nhượng để công chứng chứng thực hợp đồng và đăng ký sang tên theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 04:35:15 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi được Luật thương mại quy định như sau:

    "Điều 82. Thời hạn hoàn thành dịch vụ

    1. Bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng.
    2. Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn hoàn thành dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ phải hoàn thành dịch vụ trong một thời hạn hợp lý trên cơ sở tính đến tất cả các điều kiện và hoàn cảnh mà bên cung ứng dịch vụ biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng, bao gồm bất kỳ nhu cầu cụ thể nào của khách hàng có liên quan đến thời gian hoàn thành dịch vụ.
    3. Trường hợp một dịch vụ chỉ có thể được hoàn thành khi khách hàng hoặc bên cung ứng dịch vụ khác đáp ứng các điều kiện nhất định thì bên cung ứng dịch vụ đó không có nghĩa vụ hoàn thành dịch vụ của mình cho đến khi các điều kiện đó được đáp ứng.
    Điều 83. Yêu cầu của khách hàng liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ
    1. Trong quá trình cung ứng dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ phải tuân thủ những yêu cầu hợp lý của khách hàng liên quan đến những thay đổi trong quá trình cung ứng dịch vụ.
    2. Trừ trường hợp có thoả thuận khác, khách hàng phải chịu những chi phí hợp lý cho việc thực hiện những yêu cầu thay đổi của mình.
    Điều 84. Tiếp tục cung ứng dịch vụ sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ

    Sau khi hết thời hạn hoàn thành việc cung ứng dịch vụ mà dịch vụ vẫn chưa hoàn thành, nếu khách hàng không phản đối thì bên cung ứng dịch vụ phải tiếp tục cung ứng theo nội dung đã thoả thuận và phải bồi thường thiệt hại, nếu có."

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 04:24:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             1. Văn bản mà bạn trích dẫn ở trên không đủ căn cứ để xác định là Di chúc theo quy định pháp luật

              Điều 646 Bộ luật dân sự hiện hành (2005) quy định về di chúc như sau:

              "Ðiều 646. Di chúc

    Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.".

            Như vậy, theo quy định của pháp luật thì trước khi chết, người có tài sản có ý chí (lời nói, văn bản) để quyết định là SAU KHI người có tài sản chết thì tài sản đó sẽ thuộc về một người nào đó mà người có di sản chỉ định thì mới được gọi là Di chúc và chia thừa kế theo di chúc.

             Hơn nữa, việc làm, chứng, ký tên trong di chúc cũng được Bộ luật dân sự quy định như sau:

             "Ðiều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

    Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

    1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

    2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

    3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.".

            Đối chiếu với các quy định của pháp luật, GIẤY NHƯỢNG QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN mà bạn nêu ở trên không đủ điều kiện để xác định là Di chúc theo quy định pháp luật. 

          Tiêu đề của văn bản là hợp đồng tặng cho tài sản (nhượng quyền sở hữu); nội dung cũng thể hiện sự tặng cho (chuyển dịch tài sản ngay lập tức, tại thời điểm người có tài sản còn sống) "trong khi còn minh mẫn tôi quyết định phân chia số tài sản trên và nhượng quyền sở hữu tài sản cho các con tôi" chứ không phải là chuyển quyền sở hữu tài sản cho các con SAU khi ông bố chết; Các con ký vào văn bản đó với tư cách là người nhận tặng cho tài sản; nếu là di chúc thì các con cũng không có quyền ký vào bản di chúc đó với tư cách là người làm chứng (vi phạm Điều 654 BLDS).

            2. GIẤY NHƯỢNG QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN trên là Hợp đồng tặng cho tài sản chưa có hiệu lực pháp luật nên toàn bộ tài sản trên sẽ được chia theo pháp luật cho các thừa kế theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS

    Điều 692 Bộ luật dân sự quy định:

    "Ðiều 692. Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

    Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai."

    Khoản 19, Điềuu 4 Luật đất đai quy định:

    "Đăng ký quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.".

    Theo thông tin bạn nêu thì việc chuyển quyền sử dụng đất trên chưa Đăng ký quyền sử dụng đất cho người nhận quyền sử dụng đất nên chưa có hiệu lực pháp luật. Toàn bộ nhà đất trên vẫn là di sản của người chết để lại chưa chia nên nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia di sản theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất của người có di sản.

             3. Đối với tài sản là động sản (tiền, tài sản khác)

     

    "Ðiều 466. Tặng cho động sản  

    Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.".

    Như vậy, nếu số tiền và các động sản khác mà ông bố mang tặng cho các con theo nội dung văn bản trên là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp và duy nhất của ông bố, đồng thời người nhận tặng cho đã nhận tài sản trên thực tế thì việc tặng cho đó có hiệu lực pháp luật. Số tiền, động sản khác không còn là di sản của ông bố nữa. Nếu ông Bố không có toàn quyền quyết định đối với tài sản tặng cho thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu một phần.

    Nếu còn nội dung nào chưa rõ thì bạn có thể trình bày thêm thông tin và nêu ra thắc mắc cụ thể để được luật sư tư vấn miễn phí tại đây hoặc Website: http://luatsuchinhphap.hanoi.vn

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:52:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

            Theo thông tin bác nêu thì bác đang sống tại khu tập thể nhưng vấn đề quan trọng nhất của vụ việc bác lại chưa nêu ra: Đó là việc sinh sống của bác tại khu tập thể đó căn cứ vào quyết định giao nhà, phân nhà, quyết định giao đất, phân đất nào? Nội dung quyết định đó quy định thế nào? Nhà đó là do cơ quan bố trí ở nhờ, cho thuê hay giao cho sở hữu? Bác có đủ căn cứ xác lập quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật chưa?

            Nếu bác được giao nhà để sử dụng mà không thuộc diện được phân nhà, giao đất không thu tiền sử dụng đất (hoặc có thu tiền sử dụng đất) thì bác đang ở nhà thuộc sở hữu nhà nước, đất đai do nhà nước quản lý và Công ty thông báo như vậy là đúng pháp luật.

           Tuy nhiên, xét về nguồn gốc nhà và hoàn cảnh của bác và các gia đình trong khu tập thể thì các gia đình có thể gửi đơn kiến nghị đến các cấp chính quyền để xem xét, giải quyết cho có tình, có lý và đúng pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:44:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Theo thông tin bạn nêu thì việc chia đất đã hoàn thành ( tất cả anh em trong nhà: A, B,C,D đều đã được cấp GCN QSD đất). Do vậy, nếu có tranh chấp về việc chia lại đất mà không có sự đồng thuận của tất cả các anh em thì việc chia lại đất không thể thực hiện được, trừ trường hợp việc chia đất trước đó là không hợp pháp.

              Với tình trạng pháp lý hiện nay thì bố mẹ không thể can thiệp vào việc sử dụng đất của các con nữa vì GCN QSD đất đã đứng tên các con.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:35:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Theo thông tin bạn nêu thì bạn của bạn sẽ bị xử lý về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 138 BLHS, cụ thể như sau:

    "Điều 138. Tội trộm cắp tài sản

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng."

            Như vậy, sau khi định giá tài sản sẽ xác định là bạn của bạn phạm vào khoản mấy của Điều 138 BLHS nêu trên. Việc bạn của bạn bị xử án bao nhiêu năm tù còn "căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự" (Điều 45 BLHS).

           Quy trình giải quyết sẽ được thực hiện như sau: Công an sẽ ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra, trong quá trình điều tra các bị can thường bị tạm giam. Kết thúc giai đoạn điều tra, thì cơ quan điều tra sẽ có Kết luận điều tra để xác định tính chất, mức độ của vụ việc, vai trò của từng bị can rồi chuyển toàn bộ hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để quy tố. Sau khi có cáo trạng của VKS thì hồ sơ được chuyển sang Tòa án để xét xử. Với vụ việc bạn nêu trên (nếu vụ việc ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng) thì toàn bộ quy trình trên khoảng 4-6 tháng. Nếu vụ việc nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì có thể kéo dài khoảng 1 năm. 

           Để đảm bảo vụ việc được giải quyết một cách khách quan, minh bạch, tránh oan sai, đảm bảo quyền lợi tốt nhất của bị can, bị cáo và tiết kiệm chi phí... thì gia đình các bị can nên có luật sư bảo vệ, bào chữa trong vụ việc đó.

    (nguồn tin: http://luatsuchinhphap.hanoi.vn )  

     

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:20:39 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Điều 141 Luật Doanh nghiệp quy định: Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhânDo vậy, trách nhiệm của DNTN là trách nhiệm vô hạn.

          Về lãi suất nợ quá hạn được quy định tại khoản 5, Điều 474 BLDS năm 2005 như sau: "Trong trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi trên nợ gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ."

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:05:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Gia đình bạn cần đo vẽ hồ sơ kỹ thuật thửa đất và xin phép tách thửa gửi tới Phòng TN&MT thành phố Biên Hòa (nếu UBND tỉnh Đồng Nai có quy định này). Nếu UBND thành phố Biên Hòa cho phép tách thửa thì gia đình bạn cần lập văn bản thỏa thuận chia quyền sử dụng đất có công chứng (nếu GCN QSD đất cấp cho Hộ gia đình) hoặc Hợp đồng tặng cho QSD đất có công chứng (nếu GCN QSD đất đứng tên ba mẹ bạn).

              Sau khi hợp đồng, văn bản về chia tách, chuyển quyền sử dụng đất được công chứng thì gia đình bạn nộp hồ sơ tới Phòng TN&MT để được đăng ký và cấp sổ cho các anh, chị em của bạn. Hồ sơ gồm:

    + Bản chính Văn bản, Hợp đồng về việc chuyển quyền sử dụng đất

    + Bản chính và bản sao GCN QSD đất

    + bản sao CMND và hộ khẩu của các Bên

    + Bản sao Đăng ký kết hôn của ba mẹ bạn

    + Bản sao Giấy khai sinh của các anh, chị, em bạn để làm căn cứ miễn thuế, phí.

              Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân thì việc chuyển quyền sử dụng đất giữa ba mẹ cho các con là trường hợp được miễn thuế. Nếu việc chuyển quyền sử dụng đất lần đầu giữa cha mẹ và con thì được miễn lệ phí trước bạ.