Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    15/02/2013, 04:38:59 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Bạn tham khảo nội dung tư vấn của Luật sư Tuấn và bạn Hc33b047 nêu trên. Tài sản mà bạn nêu có nguồn gốc là tài sản riêng của bạn có được do thừa kế. Trong thời kỳ hôn nhân, bạn đã để chồng bạn cùng đứng tên nên tài sản đó đã thành tài sản chung vợ chồng. Khi ly hôn sẽ "chia đôi", tuy nhiên do nguồn gốc là do bạn được thừa kế nên bạn sẽ được chia phần nhiều hơn chồng bạn (có thể là 6/4 hoặc 7/3 tùy thuộc vào hoàn cảnh 2 người và tình tiết cụ thể của vụ án).

  • Xem thêm     

    15/02/2013, 04:29:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

     - Theo thông tin bạn nêu thì tất cả đều có lỗi trong việc ẩu đả đó. Trách nhiệm pháp lý của từng người sẽ phụ thuộc vào hậu quả pháp lý do người đó gây ra.

    - Nếu người kia đánh em bạn, bạn và cha mẹ bạn nhưng không dùng hung khí nguy hiểm và thương tật chưa tới 11% thì người đó chỉ bị xử lý hành chính.

    - Em bạn dùng dao (hung khí nguy hiểm) chém người đó vào tay, gây thương tích thì em bạn có thể bị khởi tố về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự. Em bạn cũng có thể bào chữa cho mình về hành vi chém người đó là do tinh thần bị "kích động mạnh"... Tuy nhiên, sự việc còn căn cứ vào các tình tiết, diễn biến khác mà các bên cung cấp và do các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập trong quá trình giải quyết.

    - Ngoài ra, những người gây thương tích cho người khác còn phải bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra. Do vậy, tốt nhất là hai bên nên thương lượng, đàm phán để giải quyết theo hướng dân sự. Nếu đưa vụ việc ra pháp luật thì em bạn sẽ gặp rắc rối.

    - Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009:

    "Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.".

  • Xem thêm     

    14/02/2013, 04:33:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Bạn có thể yêu cầu bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bạn phải trả lại tiền chuyển nhượng mà bạn đã giao và buộc họ phải bồi thường thiệt hại cho bạn theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự (do cung cấp thông tin không trung thực). Pháp luật luôn bảo vệ người ngay tình, trung thực khi tham gia các hợp đồng, giao dịch dân sự. Nếu hai bên không thể giải quyết được thì bạn có quyền khởi kiện tới Tòa án để được giải quyết đối với hợp đồng đó.

              Nếu cơ quan chứng chực hợp đồng chứng thực không đúng gây thiệt hại cho bạn thì cơ quan đó cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tranh chấp hợp đồng đó và họ phải liên đới chịu trách nhiệm đối với những thiệt hại của bạn.

            Ngoài ra, bạn cũng có yêu cầu cơ quan có liên quan đến vụ việc của gia đình bạn phải bồi thường theo Luật bồi thường trách nhiệm nhà nước.

  • Xem thêm     

    14/02/2013, 03:32:11 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật bảo hiểm xã hội quy định:

    "Điều 18. Trách nhiệm của ngư­ời sử dụng lao động

    1. Người sử dụng lao động có các trách nhiệm sau đây:

    a) Đóng bảo hiểm xã hội theo quy định tại Điều 92 và hằng tháng trích từ tiền lư­ơng, tiền công của ng­ười lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 91 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm xã hội;

    b) Bảo quản sổ bảo hiểm xã hội của ng­ười lao động trong thời gian ngư­ời lao động làm việc;

    c) Trả sổ bảo hiểm xã hội cho người lao động khi người đó không còn làm việc;

    d) Lập hồ sơ để ng­ười lao động được cấp sổ, đóng và hư­ởng bảo hiểm xã hội;

    đ) Trả trợ cấp bảo hiểm xã hội cho người lao động;

    e) Giới thiệu ngư­ời lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 41, Điều 51 và điểm b khoản 1 Điều 55 của Luật này;

    g) Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    h) Cung cấp thông tin về việc đóng bảo hiểm xã hội của ngư­ời lao động khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;

    i) Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

    2. Ngoài việc thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều này, hằng tháng người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp đóng bảo hiểm thất nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 102 và trích từ tiền lương, tiền công của người lao động theo quy định tại khoản 1 Điều 102 của Luật này để đóng cùng một lúc vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp.

    Điều 20. Trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội

    Tổ chức bảo hiểm xã hội có các trách nhiệm sau đây:

    1. Tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về bảo hiểm xã hội; hướng dẫn thủ tục thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối với người lao động, người sử dụng lao động thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội;

    2. Thực hiện việc thu bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này;

    3. Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ bảo hiểm xã hội; thực hiện việc trả lương h­ưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn;

    4. Cấp sổ bảo hiểm xã hội đến từng người lao động;

    5. Quản lý, sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;

    6. Thực hiện các biện pháp bảo toàn và tăng trư­ởng quỹ bảo hiểm xã hội;

    7. Tổ chức thực hiện công tác thống kê, kế toán, hướng dẫn nghiệp vụ về bảo hiểm xã hội;

    8. Giới thiệu ng­ười lao động đi giám định mức suy giảm khả năng lao động tại Hội đồng Giám định y khoa theo quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 41 của Luật này;

    9. ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bảo hiểm xã hội; lưu trữ hồ sơ của người tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật;

    10. Định kỳ sáu tháng, báo cáo Hội đồng quản lý bảo hiểm xã hội về tình hình thực hiện bảo hiểm xã hội. Hằng năm, báo cáo Chính phủ và cơ quan quản lý nhà nước về tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội;

    11. Cung cấp đầy đủ và kịp thời thông tin về việc đóng, quyền đư­ợc hưởng chế độ, thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội khi ngư­ời lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu;

    12. Cung cấp tài liệu, thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà n­ước có thẩm quyền;

    13. Giải quyết kịp thời khiếu nại, tố cáo về việc thực hiện bảo hiểm xã hội;

    14. Thực hiện hợp tác quốc tế về bảo hiểm xã hội;

    15. Các trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

    Điều 109. Sổ bảo hiểm xã hội

    1. Sổ bảo hiểm xã hội được cấp đối với từng người lao động để theo dõi việc đóng, hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội và là cơ sở để giải quyết các chế độ bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật này. Mẫu Sổ bảo hiểm xã hội do tổ chức bảo hiểm xã hội quy định.

    2. Sổ bảo hiểm xã hội sẽ được dần thay thế bằng thẻ bảo hiểm xã hội điện tử trong quá trình áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý bảo hiểm xã hội. Chính phủ quy định thủ tục thực hiện bảo hiểm xã hội khi sử dụng thẻ bảo hiểm xã hội điện tử."

              Như vậy, để biết được người lao động đã từng đóng bảo hiểm xã hội hay chưa bạn có thể xác minh thông tin ở công ty cũ của người lao động hoặc cơ quan bảo hiểm xã hội.

  • Xem thêm     

    10/02/2013, 09:50:16 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

            Vụ việc vay nợ giữa anh rể bạn với mẹ bạn và những người vay là quan hệ dân sự. Nếu anh rể bạn muốn đòi tiền thì phải khởi kiện đến Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự.

              Vụ việc của gia đình bạn là một trong nhiều vụ việc đang diễn ra trong xã hội ngày nay. Để giải quyết vụ việc đó, mẹ bạn nên trình báo toàn bộ sự việc với công an để được can thiệp kịp thời. Mọi việc hành hung, gây rối của ông anh rể của bạn với gia đình bạn sẽ bị xử lý theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    10/02/2013, 09:19:45 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Nội dung bạn hỏi được quy định tại khoản 3, Điều 8; Điều 12; Điều 20 và Điều 136 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau:

    "Khoản 3, Điều 8 quy định:

    "Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.".

    Điều 20. Đồng phạm

    1. Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm.

    2. Người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức đều là những người đồng phạm.

    Người thực hành là người trực tiếp thực hiện tội phạm.

    Người tổ chức là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy việc thực hiện tội phạm.

    Người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác thực hiện tội phạm.

    Người giúp sức là người tạo những điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm.

    3. Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.

    Điều 12. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

    1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.

    2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    Điều 136. Tội cướp giật tài sản

    1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.".

              Như vậy, nếu có căn cứ xác định bạn của bạn cùng có mục đích đi cướp giật tài sản thì cũng sẽ xử lý như các đồng phạm khác (Điều 20).

    - Nếu thời điểm xảy ra hành vi cướp giật mà bạn đó đã đủ 16 tuổi thì sẽ bị xử lý theo Điều 136 BHS.

    - Nếu tại thời điểm thực hiện hành vi cướp giật mà bạn đó chưa đủ 16 tuổi thì chỉ bị xử lý nếu trường hợp phạm tội thuộc khoản 3, Điều 136 BLHS.

    - Ngoài ra, bạn đó sẽ được áp dụng Điều 74 Bộ luật hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội.

     

  • Xem thêm     

    10/02/2013, 09:05:32 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    "Hồ sơ đăng ký xe" không phải là "tài sản" theo quy định của pháp luật hiện hành nên hành vi mượn hồ sơ xe (chứ không phải là mượn xe) đi cầm cố... không thể xử lý hình sự. Bạn chỉ còn cách là liên hệ với nơi cầm cố hồ sơ đó để chuộc lại.

  • Xem thêm     

    10/02/2013, 09:01:29 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            1. Theo thông tin bạn nêu thì anh bạn có dấu hiệu của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự. Khi có đủ căn cứ khởi tố vụ án thì công an sẽ khởi tố vụ án, khởi tố bị can và có thể bắt tạm giam anh bạn để điều tra. Sau khi kết thúc điều tra thì công an sẽ có kết luận điều tra và chuyển hồ sơ vụ án sang viện kiểm sát cùng cấp để truy tố. Sau đó Viện kiểm sát mới chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét xử. Anh bạn chỉ được coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án.

            2. Vụ việc của anh bạn đang trong giai đoạn kiểm tra, xác minh nguồn tin theo quy định tại Điều 103 Bộ luật tố tụng hình sự. Anh bạn có quyền yêu cầu công an gửi giấy mời, giấy triệu tập để làm việc.

            3. Việc công ty không ký hợp đồng lao động với anh bạn như vậy là vi phạm luật lao động và có thể bị xử lý theo pháp luật. Tuy nhiên, hành vi của anh bạn là việc khác và anh bạn vẫn bị xử lý theo pháp luật,.

  • Xem thêm     

    08/02/2013, 08:30:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Theo quy định pháp luật hiện hành thì người đã thành niên "giao cấu" với người chưa đủ 16 tuổi thì mới bị xử lý hình sự về tội giao cấu với trẻ em theo quy định tại Điều 115 Bộ luật hình sự.

    - Nếu khi quan hệ tình dục (tự nguyện) mà cả hai đều chưa thành niên thì chỉ là "trò trẻ con" và không bị xử lý hình sự... nhưng sẽ bị dư luận lên tiếng.

    - Theo thông tin bạn nêu thì hành vi của bạn chưa đến mức bị xử lý hình sự, tuy nhiên việc quan hệ tình dục khi cả hai còn rất trẻ như vậy là không nên và bạn nên chịu trách nhiệm về hành vi của mình, hãy tìm cách giải quyết hậu quả sao cho êm đẹp.

  • Xem thêm     

    08/02/2013, 08:14:20 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu thương tích của vợ bạn là 2% nhưng người gây thương tích cho vợ bạn thuộc một trong các trường hợp sau đây thì vẫn bị xử lý theo Điều 104 BLHS khi vợ bạn có đơn yêu cầu:

    "a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.".

            2. Nếu chưa đến mức xử lý hình sự thì người gây thương tích cho vợ bạn sẽ bị xử phạt hành chính về hành vi gây thương tích cho người khác theo quy định tại khoản 2, Điều 7 Nghị định 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính Phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự và an toàn công cộng với mức xử phạt từ 500.000 đến 1.000.000 đồng về hành vi: Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    05/02/2013, 11:43:04 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời như sau:

             1. Theo thông tin bạn nêu thì mẹ bạn đã bị khởi tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS và đã bị phát lệnh truy nã. Do vậy, mẹ bạn sẽ khó mà tránh được cảnh tù tội. Hành vi vay tiền rồi bỏ trốn thì có thể cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

              2. Thông thường với tội phạm bị bắt theo lệnh truy nã thì hiếm khi được tại ngoại trong giai đoạn điều tra. Nếu mẹ bạn mắc bệnh nặng hoặc có lý do đặc biệt nào đó thì mới có cơ hội được tại ngoại trong quá trình các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Tuy nhiên, mẹ bạn vẫn nên đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

              3. Hình phạt của mẹ bạn phụ thuộc vào việc làm rõ số tiền chiếm đoạt là bao nhiêu (40 triệu ? hay 300 triệu đồng ? ). Ngoài ra việc quyết định hình phạt sẽ phụ thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (Điều 45 BLHS). Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì bạn có thể tham khảo tại Điều 46 BLHS.

     

  • Xem thêm     

    05/02/2013, 11:32:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật thì cha bạn phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân các khoản sau:

    - Tiền chi phí cứu chữa trước khi chết (nếu có);

    - Tiền mai táng phí theo phong tục địa phương;

    - Tiền bồi thường tổn thất về tinh thần;

    - Tiền cấp dưỡng cho những người mà nạn nhân có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng.

    Tuy nhiên, nếu các khoản bồi thường trên lớn hơn khả năng chi trả của người gây thiệt hại thì họ chỉ phải bồi thường số tiền trong phạm vi khả năng của người gây thiệt hại.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự năm 2005:

    "Ðiều 605. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại

    1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.

    3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc người gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.

    Ðiều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Ðiều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Ðiều 623. Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    1. Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định.

    Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.

    2. Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

    3. Chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

    4. Trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ trái pháp luật phải bồi thường thiệt hại.

    Khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.".

     

              Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao quy định như sau:

    "2. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    2.1. Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết bao gồm: các chi phí được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.1, 1.4 và thu nhập thực tế bị mất của người bị thiệt hại trong thời gian điều trị được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần II này.

    2.2. Chi phí hợp lý cho việc mai táng bao gồm: các khoản tiền mua quan tài, các vật dụng cần thiết cho việc khâm liệm, khăn tang, hương, nến, hoa, thuê xe tang và các khoản chi khác phục vụ cho việc chôn cất hoặc hỏa táng nạn nhân theo thông lệ chung. Không chấp nhận yêu cầu bồi thường chi phí cúng tế, lễ bái, ăn uống, xây mộ, bốc mộ...

    2.3. Khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng trước khi chết.

    a) Chỉ xem xét khoản tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng, nếu trước khi tính mạng bị xâm phạm người bị thiệt hại thực tế đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Những người đang được người bị thiệt hại cấp dưỡng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng tương ứng đó. Đối với những người mà người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng nhưng sau khi người bị thiệt hại bị xâm phạm tính mạng, thì những người này được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng hợp lý phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của người phải bồi thường, nhu cầu thiết yếu của người được bồi thường.

    Thời điểm cấp dưỡng được xác định kể từ thời điểm tính mạng bị xâm phạm.

    b) Đối tượng được bồi thường khoản tiền cấp dưỡng.

    - Vợ hoặc chồng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và được chồng hoặc vợ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

    - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha, mẹ là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng;

    - Cha, mẹ là người không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà con là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Vợ hoặc chồng sau khi ly hôn đang được bên kia (chồng hoặc vợ trước khi ly hôn) là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Con chưa thành niên hoặc con đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi dưỡng là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động không có tài sản để cấp dưỡng cho con được anh, chị đã thành niên không sống chung với em là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Anh, chị không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình mà em đã thành niên không sống chung với anh, chị là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Cháu chưa thành niên hoặc cháu đã thành niên không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không còn người khác cấp dưỡng mà ông bà nội, ông bà ngoại không sống chung với cháu là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng;

    - Ông bà nội, ông bà ngoại không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình và không có người khác cấp dưỡng mà cháu đã thành niên không sống chung với ông bà nội, ông bà ngoại là người bị thiệt hại đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2.4. Khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần do tính mạng bị xâm phạm.

    a) Người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trong trường hợp này là những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người bị thiệt hại.

    b) Trường hợp không có những người được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 này, thì người được nhận khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần là người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại.

    c) Trong mọi trường hợp, khi tính mạng bị xâm phạm, những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng và người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (sau đây gọi chung là người thân thích) của người bị thiệt hại được bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần. Cần căn cứ vào hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết này để xác định mức độ tổn thất về tinh thần của những người thân thích của người bị thiệt hại. Việc xác định mức độ tổn thất về tinh thần phải căn cứ vào địa vị của người bị thiệt hại trong gia đình, mối quan hệ trong cuộc sống giữa người bị thiệt hại và những người thân thích của người bị thiệt hại...

    d) Mức bồi thường chung khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần trước hết do các bên thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được, thì mức bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho tất cả những người thân thích của người bị thiệt hại phải căn cứ vào mức độ tổn thất về tinh thần, số lượng người thân thích của họ, nhưng tối đa không quá 60 tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời điểm giải quyết bồi thường.". 

  • Xem thêm     

    05/02/2013, 11:18:17 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Hiện nay không có quy định nào của pháp luật hạn chế quyền định đoạt tài sản của người trên 80 tuổi. Nếu người già không còn khả năng nhận thức thì việc thực hiện giao dịch dân sự của họ thuộc về người vợ hoặc chồng của họ hoặc thuộc về người con cả. Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

    "Ðiều 197. Quyền định đoạt của chủ sở hữu

    Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.

     248. Chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác

    Khi chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho người khác thông qua hợp đồng mua bán, trao đổi, tặng cho, cho vay hoặc thông qua việc để thừa kế thì quyền sở hữu đối với tài sản của người đó chấm dứt kể từ thời điểm phát sinh quyền sở hữu của người được chuyển giao.

    Ðiều 62. Người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự 

    1. Trong trường hợp vợ mất năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ; nếu chồng mất năng lực hành vi dân sự thì vợ là người giám hộ.

    2. Trong trường hợp cha và mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng lực hành vi dân sự, còn người kia không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo là người giám hộ.

    3. Trong trường hợp người thành niên mất năng lực hành vi dân sự chưa có vợ, chồng, con hoặc có mà vợ, chồng, con đều không có đủ điều kiện làm người giám hộ thì cha, mẹ là người giám hộ.

    Ðiều 67. Nghĩa vụ của người giám hộ đối với người được giám hộ mất năng lực hành vi dân sự

    Người giám hộ của người mất năng lực hành vi dân sự có các nghĩa vụ sau đây:

    1. Chăm sóc, bảo đảm việc điều trị bệnh cho người được giám hộ;

    2. Ðại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự;

    3. Quản lý tài sản của người được giám hộ;

    4. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.".

             Nếu gia đình bạn có chứng cứ chứng minh là bà bạn không minh mẫn hoặc không tự nguyện khi lập di chúc thì sau khi bà bạn qua đời, gia đình bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án hủy bỏ di chúc đó.

  • Xem thêm     

    05/02/2013, 10:55:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Theo quy định pháp luật thì đất khai hoang phải được sử dụng ổn định, liên tục, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch thì mới được công nhận quyền sử dụng đất. Việc gia đình bạn chỉ khai hoang, sử dụng thời hạn ngắn ngủi 3 năm thì rất khó để đòi lại quyền sử dụng đất của người đã sử dụng ổn định, liên tục từ năm 1980 tới nay!

    Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự năm 2005:

    "Ðiều 247. Xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu

    1. Người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai trong thời hạn mười năm đối với động sản, ba mươi năm đối với bất động sản thì trở thành chủ sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm bắt đầu chiếm hữu, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Ðiều này.

    2. Người chiếm hữu tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước không có căn cứ pháp luật thì dù ngay tình, liên tục, công khai, dù thời gian chiếm hữu là bao lâu cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản đó."

                  Nếu gia đình bạn có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai, đồng thời người đang sử dụng đất chưa được cấp GCN QSD đất thì gia đình bạn mới có cơ hội (căn cứ) để đòi lại thửa đất đó.

  • Xem thêm     

    05/02/2013, 10:41:52 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định:

    "Điều 92. Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.".

    Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì bạn chỉ được quyền trực tiếp nuôi con (dưới 36 tháng tuổi) sau khi ly hôn nếu vợ bạn đồng ý. Nếu có tranh chấp về việc nuôi con thì Tòa án sẽ giao con cho vợ bạn trực tiếp nuôi dưỡng. Bạn chỉ có cơ hội được Tòa án giao con nếu khi ly hôn con bạn đã đủ 36 tháng tuổi.

  • Xem thêm     

    04/02/2013, 01:56:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn được quy định tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 cụ thể như sau:

    "Điều 16. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đất đã được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 nhưng người đang sử dụng đất đã nộp tiền để được sử dụng đất

    Đất được giao không đúng thẩm quyền nhưng người đang sử dụng đất có giấy tờ chứng minh về việc đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau đây:

    1. Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì được cấp Giấy chứng nhận đối với diện tích đất đã được giao và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì thực hiện như sau:

    a) Đối với diện tích đất được giao thuộc nhóm đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp nhưng không phải đất ở thì được cấp Giấy chứng nhận và không phải nộp tiền sử dụng đất;

    b) Đối với diện tích đất được giao làm đất ở trong hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai thì được cấp Giấy chứng nhận và không phải nộp tiền sử dụng đất; đối với diện tích đất còn lại đã có nhà ở (nếu có) thì được cấp Giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP; đối với diện tích còn lại không có nhà ở (nếu có) được xác định là đất nông nghiệp theo hiện trạng sử dụng, nếu người sử dụng đất đề nghị được chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP."

  • Xem thêm     

    02/02/2013, 09:09:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Vợ bạn bị xử lý về tội gì phụ thuộc vào thời điểm xuất hiện mục đích chiếm đoạt tài sản của vợ bạn (trước hay sau khi nhận được tài sản):

    - Nếu tại cơ quan điều tra, công an làm rõ vợ bạn muốn chiếm đoạt tài sản nên mới mượn xe để đi cầm cố thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự.

    - Nếu vợ bạn có ý định mượn xe thật, sau khi nhận xe mới nảy sinh ý định chiếm đoạt thì sẽ phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

  • Xem thêm     

    02/02/2013, 09:02:03 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

         Vụ việc của bạn có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 Bộ luật hình sự. Bạn cần gửi đơn tới công an huyện, nơi bạn giao tiền cho người đó để được giải quyết theo pháp luật.

    - Nếu bạn báo công an và công an đấu tranh, khai thác khiến người kia thừa nhận đã nhận số tiền của bạn để chạy việc nhưng không chạy được, cũng không trả tiền thì sẽ bị khởi tố và xử lý theo Điều 139 Bộ luật hình sự.

    - Nếu công an không chứng minh được mục đích nhận tiền là để xin việc thì sẽ không có căn cứ để xử lý hình sự. Khi đó bạn có thể khởi kiện để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự để đòi tiền).

     

  • Xem thêm     

    02/02/2013, 08:56:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Nếu anh trai bạn vay tiền của người ta thì nên trả. Nếu chưa có thì khất nợ chứ không nên trốn tránh. Việc vay nợ giữa anh trai bạn với người kia là giao dịch dân sự.

          Nếu người đó báo công an và công an có chứng cứ chứng minh được là anh bạn đã dùng số tiền đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ thì anh bạn mới bị xử lý hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

  • Xem thêm     

    02/02/2013, 06:39:34 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu công an thu giữ chiếc điện thoại đó thì phải lập biên bản... Bạn cũng có quyền yêu cầu chủ quán điện thoại trả lại số tiền đó cho bạn.