Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    31/03/2013, 07:48:42 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Bạn chưa nói rõ hành vi "chiếm đoạt" xe của chị bạn như thế nào (gian dối, lén lút hay dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản...)? Việc bạn nhờ cậu bạn đứng tên giùm xe máy là giao dịch dân sự. Nếu có chứng cứ về việc nhờ đứng tên giùm chiếc xe đó thì bạn có thể khởi kiện để đòi lại xe.

             Việc chị bạn sử dụng (chiếm đoạt) chiếc xe đó của bạn 4 năm nay mà bạn không có khiếu, kiện tranh chấp gì.. hơn nữa lại là chị ruột... nên dù chị bạn có hành vi gian dối để được sử dụng chiếc xe đó cũng khó có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong vụ việc trên bạn nên giải quyết dân sự thì tốt hơn.

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 09:01:52 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Nếu việc góp vốn thành lập doanh nghiệp và đã thực hiện đúng thủ tục thành lập doanh nghiệp thì việc rút vốn, chuyển nhượng phần vốn góp... được thực hiện theo thủ tục quy định tại Luật doanh nghiệp. Còn việc của bạn không tuân theo quy định pháp luật trên nên chỉ là quan hệ dân sự. Do vậy, vụ việc của các bạn chỉ chịu tác động bởi hiệu lực của hợp đồng thuê nhà. Vụ việc đó tốt nhất là thương lượng. Nếu đưa ra pháp luật thì rất khó để có căn cứ giải quyết tranh chấp.

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 04:21:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Nội dung bạn hỏi được quy định tại khoản 6, Điều 50 Luật đất đai, cụ thể như sau:

             "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (01/7/2004), nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ."

     

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 04:16:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì người có đơn yêu cầu tòa án giải quyết vụ, việc dân sự thì phải xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp. Nếu không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình thì Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu đó.

             Trong vụ việc đứng tên giùm nhà đất thì người khởi kiện phải chứng minh được việc nguyên đơn đã chuyển tiền để mua nhà đất đó hoặc số tiền để mua nhà đất đó có nguồn gốc của nguyên đơn. Nếu chuyển tiền qua ngân hàng, hoặc dịch vụ chuyển tiền quốc tế thì phải có hóa đơn, chứng từ. Nếu chuyển tiền qua cá nhân thì phải được cá nhân đó thừa nhận hoặc có văn bản ghi nhận việc nhờ vả đó...

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 03:57:56 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp bạn nêu UBND huyện bắt buộc phải ra quyết định thu hồi đất đối với từng trường hợp cụ thể của từng hộ gia đình, cá nhân.  Bạn tham khảo quy định sau đây của luật đất đai:

    "Điều 44. Thẩm quyền thu hồi đất

    1. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định thu hồi đất đối với tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.

    2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.

    3. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này không được uỷ quyền."

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 03:53:13 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:

    - Nếu gia đình bạn không được bồi thường bằng đất thì số tiền bồi thường về quyền sử dụng đất của gia đình bạn là: 240m2 x 1.999.000 đ;

    - Số tiền mà bạn phải nộp khi nhận đất tái định cư là: 2.700.000đ x 180m2

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 03:48:42 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

             1. Về mặt lý thuyết: Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm về mọi loại tội phạm. Do vậy, nếu có căn cứ xác định anh A đánh bạc thì anh A có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo Điều 248 BLHS. Nếu anh A vay tiền vào mục đích đánh bạc rồi không có khả năng hoàn trả thì còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

             2. Thực tế: Nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Nếu không chứng minh được hành vi đánh bạc thì vụ việc chỉ là quan hệ dân sự nếu có tranh chấp về việc vay nợ thì người cho vay phải khởi kiện để đòi nợ theo thủ tục tố tụng dân sự.

             3. Về tình: Việc vay mượn là có thật, A có nhận và sử dụng tiền của người ta thì nên trả lại tiền cho người cho vay. Nếu không trả được ngay thì có thể thỏa thuận về thời hạn trả sao cho hợp lý.

  • Xem thêm     

    29/03/2013, 11:39:48 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

              Theo quy định của pháp luật hiện hành thì con trai - con gái, con trong giá thú - con ngoài giá thú, con nuôi - con đẻ đều có quyền thừa kế như nhau. Do vậy, nếu bố mẹ bạn qua đời mà không để lại di chúc thì bạn và các chị em gái khác cũng được quyền hưởng di sản như con trai trong gia đình.

             Việc mẹ bạn tự ý chuyển giao toàn bộ tài sản của bố bạn cho anh, em trai bạn mà không có ý kiến nhất trí của các chị em gái là không đúng pháp luật. Các chị em gái có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia thừa kế theo pháp luật đối với toàn bộ tài sản trên, đồng thời kiến nghị với UBND hủy bỏ GCN QSD đất đã cấp cho người anh, em đó.

    Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật dân sự:

     

    "Ðiều 632. Quyền bình đẳng về thừa kế của cá nhân

    Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.

    Ðiều 676. Người thừa kế theo pháp luật 

    1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

    a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;

    b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;

    c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.

    2. Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.

    3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản."

     

  • Xem thêm     

    28/03/2013, 10:51:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu trong giấy vay tiền thể hiện là bên vay tiền đã nhận số tiền vay thì Bên cho vay có thể khởi kiện để đòi số tiền đó. Nếu bạn chỉ là người chuyển tiên hộ giữa hai bên và bạn đã thực hiện xong việc đó thì bạn không bị xử lý gì. Pháp luật chỉ thừa nhận mức lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.

  • Xem thêm     

    28/03/2013, 10:32:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                 Sự việc trên là "chuyện trẻ con" và không bị xử lý hình sự. Nếu có thể thì chỉ bị xử lý hành chính... Pháp luật hiện hành quy định: Nếu người ĐÃ THÀNH NIÊN mà giao cấu với người chưa đủ 16 tuổi thì mới phạm tội giao cấu với trẻ em. Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    "Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em

    1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Có tính chất loạn luân;

    d) Làm nạn nhân có thai;

    đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội."

  • Xem thêm     

    25/03/2013, 07:55:33 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Không có gì. Chúc gia đình bạn sớm giải quyết được sự việc đó!

  • Xem thêm     

    25/03/2013, 04:29:23 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn gửi đơn ly hôn tới Tòa án nơi chồng bạn đang cư trú, làm việc để được xem xét, giải quyết.

    Hồ sơ gồm:

    - Đơn xin ly hôn;

    - CMND, Hộ khẩu của bạn  (Bản sao);

    - Giấy khai sinh của con (Bản sao);

    - Đăng ký kết hôn (Bản chính);

    - Giấy tờ xác định nơi cư trú của chồng bạn.

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 09:47:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Bố bạn có thể yêu cầu người vay viết giấy nhận nợ để làm căn cứ khởi kiện. Nếu chỉ có chứng cứ ghi âm thì Tòa án sẽ không thụ lý để giải quyết. Nếu người đó không viết giấy nhận nợ thì bố bạn có thể trình báo sự việc với công an hoặc lãnh đạo cơ quan để đòi nợ nếu chưa đòi được thì cũng là động tác để tạo căn cứ khởi kiện dân sự.

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 09:31:13 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

          Tòa án là nơi có thẩm quyền giải quyết yêu cầu về bồi thường thiệt hại chứ không phải là Ủy ban. Nếu bạn thua kiện thì bạn phải nộp tiền án phí. Để tòa án giải quyết vụ việc thì bạn cũng phải nộp tiền tạm ứng án phí..

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 04:15:57 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             Việc trung tâm yêu cầu bạn phải nộp thuế giá trị gia tăng (VAT) là không thỏa đáng trong trường hợp này vì bạn không phải là người mua xe của Trung tâm đó.

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 04:13:03 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Như vậy là bạn đã vi phạm và sẽ buộc phải tháo dỡ biển hiệu khi có cơ quan chức năng tới kiểm tra. Nếu bạn muốn tiếp tục kinh doanh thì cần liên hệ với công ty để ký kết hợp đồng.

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 04:01:53 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

           Nếu bạn có chứng cứ việc người đó vay tiền của bạn rồi sử dụng vào chuyện lô đề, cá độ bóng đá hoặc khi bạn có đơn trình báo, công an xác minh, làm rõ việc đó thì mới có thể xử lý người đó về tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Nếu người vay tiền của bạn bỏ trốn thì cũng là căn cứ để xem xét dấu hiệu tội phạm. Bạn có thể làm đơn trình báo sự việc với công an nơi bạn giao tiền để được xem xét, giải quyết.

          Nếu không chứng minh được việc sử dụng tiền vào mục đích bất hợp pháp thì đó chỉ là quan hệ dân sự và bạn có thể khởi kiện tới Tòa án nơi người vay tiền cư trú để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. 

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 03:19:28 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

            1. Nếu việc chuyển nhượng của bạn là hợp pháp và đã được cấp GCN QSD đất thì vấn đề của bạn không đáng lo ngại. Tuy nhiên, bạn cần xem lại người chuyển nhượng cho bạn có "toàn quyền" chuyển nhượng hay không? Nếu nguồn gốc thửa đất đó là di sản thừa kế của cha mẹ người chuyển nhượng cho bạn để lại, chưa chia mà người đó tự ý chuyển nhượng toàn bộ di sản cho bạn thì việc chuyển nhượng đó là trái pháp luật.

            2. Theo quy định của pháp luật thì thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế là 10 năm kể từ ngày người có di sản chết. Do vậy, nếu vụ việc tranh chấp thừa kế đã hết thời hiệu khởi kiện thì bạn có thể yêu cầu Tòa án trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện và đình chỉ giải quyết vụ án.

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 10:13:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

          Trong vụ việc bạn nêu thì việc ai đánh trước hay đánh sau không có nhiều ý nghĩa. Cả hai Bên đều sai và mức độ lỗi khác nhau... Quan trọng là có giám định thương tích hay không. Nếu giám định thương tích và đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự thì người gây thương tích sẽ bị xử lý theo Điều 104 BLHS. Việc thỏa thuận giữa người đánh và người bị đánh là tự nguyện thì công an sẽ ghi nhận và để hai bên giải quyết dân sự với nhau.

          Nếu không bị xử lý hình sự thì những người "đánh nhau" đó cũng sẽ bị xử lý hành chính (tiền sự) theo quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 7, Nghị định số 73/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, cụ thể như sau:

    "Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào tàu, thuyền, xe lửa hoặc các phương tiện giao thông khác, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    e) Để gia súc hoặc các động vật khác gây thương tích, thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả “đèn trời” trong thành phố, thị xã hoặc ở khu vực đông dân cư, khu công nghiệp, các khu vực kho, bãi, sân bay, cảng..."

  • Xem thêm     

    24/03/2013, 09:51:13 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Trường hợp bạn hỏi được quy định tại điểm a, khoản 1 và khoản 3 Điều 18 Nghị định số 73/2010/NĐ-CP ngày 12/7/2010 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội, cụ thể như sau:

                 "Điều 18. Hành vi gây thiệt hại đến tài sản của người khác

    1. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau:

    a) Trộm cắp tài sản nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    b) Công nhiên chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    c) Dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    d) Sử dụng trái phép tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    đ) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.

    2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    b) Gây mất mát, hư hỏng hoặc làm thiệt hại tài sản của Nhà nước được giao trực tiếp quản lý nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    c) Dùng thủ đoạn hoặc tạo ra hoàn cảnh để buộc người khác đưa tiền, tài sản nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    d) Gian lận hoặc lừa đảo trong việc môi giới, hướng dẫn giới thiệu dịch vụ mua, bán nhà, đất hoặc các tài sản khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    đ) Mua, bán, cất giữ hoặc sử dụng tài sản của người khác mà biết rõ tài sản đó do vi phạm pháp luật mà có nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

    e) Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.

    3. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện đối với hành vi quy định tại điểm a, b, c, d khoản 1; điểm c, đ, e khoản 2 Điều này.

    4. Người vi phạm tại điểm a, b, c khoản 1; điểm a, b, c, d, e khoản 2 của Điều này còn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi vi phạm hành chính gây ra."