Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    11/05/2012, 10:22:57 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Nếu bạn đó đã bị tạm giam trước khi xét xử thì thời gian tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù. Do vậy, thời gian chấp hành hình phạt tù của bạn đó làm căn cứ xin đặc xá được tính từ khi án có hiệu lực pháp luật đến ngày 02/9/2012 + thời gian tạm giam. Trong trường hợp bạn nêu thì đến thời điểm 02/9/2012 là đủ thời gian để đề nghị hưởng đặc xá, còn có được đặc xá hay không lại là chuyện khác.
  • Xem thêm     

    11/05/2012, 10:14:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn dung.nh!
               Bạn không nên hòa giải thành như vậy. Thông thường khi tham gia vụ án tranh chấp dân sự mà vụ án kết thúc bằng hòa giải thì chúng tôi thường nhận tiền ngay tại thời điểm lập biên bản hòa giải thành chứ không bao giờ chờ đến khi thi hành án. 
               Trong vụ việc này bạn có nhiều cơ hội thắng kiện do bên nhận đặt cọc vi phạm cam kết. Hơn nữa, nếu có tranh chấp thì họ sẽ không thể sang tên, chuyển nhượng cho người khác được (bạn hoàn toàn có căn cứ và tư thế để đàm phán). Nếu bạn đi đến cùng, phải nhờ đến thi hành án thì số tiền bạn nhận lại nhiều khả năng sẽ là 100 trđ chứ không phải là 50 trđ như hiện nay. Nay bạn nhận 50 trđ lại phải thông qua thủ tục thi hành án (không khác gì một bản án), trừ đi chi phí thi hành án thì số tiền còn lại của bạn bị "âm"!
             Hơn nữa, với số tiền ít như vậy thì việc phát mại tài sản có giá trị lớn đến thi thành án là rất khó thực hiện. Biên bản hòa giải thành như vậy là hoàn toàn có lợi cho bên kia. Trong vụ việc này rõ ràng ngay từ đầu đã có dấu hiệu không khách quan của phía Tòa án, vậy mà bạn không đề phòng về câu chữ trong biên bản thỏa thuận.
    Nếu còn thời hạn thay đổi (7 ngày) thì bạn nên thay đổi ý kiến để Tòa án tiếp tục giải quyết, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bạn.
  • Xem thêm     

    11/05/2012, 10:11:12 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Quyết định số 58/2009/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà Nội quy định về hạn mức giao đất ở mới; hạn mức công nhận đất ở đối với thửa đất có vườn, ao trong khu dân cư; kích thước, diện tích đất ở tối thiểu được tách thửa cho hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn Thành phố Hà Nội. Diện tích tối thiểu theo Quyết định trên là 30m2.
  • Xem thêm     

    11/05/2012, 10:02:24 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
                Theo thông tin bạn nêu thì anh trai của A đã phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác theo quy định tại Điều 104 BLHS. Nhiều khả năng A cũng bị khởi tố về tội này với vai trò đồng phạm. Bạn tham khảo hình phạt như sau:

                Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

    1.                  Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

    4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

  • Xem thêm     

    11/05/2012, 09:57:01 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
             1. Nếu thửa đất của gia đình bạn đã sử dụng ổn định, liên tục, công khai từ trước 15/10/1993, phù hợp với quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 4, Điều 50 Luật đất đai. Nếu Nhà nước thu hồi đất để phục vụ có mục đích công cộng, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế... thì phải bồi thường, hỗ trợ theo quy định của pháp luật.
            2. UBND cấp quận, huyện mới có thẩm quyền thu hồi đất. Việc "chính quyền" thôn tự ý thu hồi đất của gia đình bạn mà không đền bù, bồi thường là không đúng pháp luật. Gia đình bạn có quyền khiếu kiện đến chủ tịch UBND thị trấn Ân Thi và UBND huyện Ân Thi để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.
           3. Nếu thửa đất của gia đình bạn thuộc khu vực quy hoạch nghĩa trang thì khi thu hồi đất, gia đình bạn cũng được bồi thường, hỗ trợ. Nếu không đủ điều kiện bồi thường về đất thì cũng được bồi thường về cây cối, hoa màu trên đất. Thẩm quyền thu hồi đất thuộc về UBND huyện Ân Thi.
  • Xem thêm     

    11/05/2012, 09:24:15 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Nếu việc vay nợ đó là thỏa thuận trên cơ sở tự nguyện, trung thực. Chồng bạn sử dụng tiền vay đúng mục đích... việc mất khả năng thanh toán là do yếu tố khách quan thì đó chỉ là giao dịch dân sự. Nếu bên cho vay khởi kiện thì Tòa án sẽ giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì chủ nợ có thể yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mại tài sản của gia đình bạn để thu hồi nợ.
              2. Nếu chồng bạn có gian dối trong việc vay nợ trên để chiếm đoạt tài sản hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì chồng bạn có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.
  • Xem thêm     

    11/05/2012, 09:18:06 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Ðiều 653 BLDS năm 2005 quy định:
    "Nội dung của di chúc bằng văn bản

     1. #ff0000;">Di chúc #ff0000;">phải ghi rõ:

     a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;

     b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;

     c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;

     d) #ff0000;">Di sản để lại và nơi có di sản.."


             - Ðiều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn

    Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

    1. #ff0000;">Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;

     2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
              Do vậy nếu người lập di chúc không công bố nội dung di chúc thì không thể chứng thực được di chúc. Nếu không muốn ai biết về nội dung di chúc thì người lập di chúc có thể lựa chọn loại di chúc bằng văn bản không có người làm chứng quy định tại Điều 655 BLDS (tự tay viết và ký vào bản di chúc)

    - Ðiều 665. Gửi giữ di chúc

     1. Người lập di chúc có thể yêu cầu cơ quan công chứng lưu giữ hoặc gửi người khác giữ bản di chúc.

     2. Trong trường hợp cơ quan công chứng lưu giữ bản di chúc thì phải bảo quản, giữ gìn theo quy định của pháp luật về công chứng.

     3. Cá nhân giữ bản di chúc có các nghĩa vụ sau đây:

     a) Giữ bí mật nội dung di chúc;

     b) Giữ gìn, bảo quản bản di chúc; nếu bản di chúc bị thất lạc, hư hại thì phải báo ngay cho người lập di chúc;

     c) Giao lại bản di chúc cho người thừa kế hoặc người có thẩm quyền công bố di chúc, khi người lập di chúc chết. Việc giao lại bản di chúc phải được lập thành văn bản, có chữ ký của người giao, người nhận và trước sự có mặt của hai người làm chứng.

     Do vậy, nếu anh trai bạn lập di chúc loại có công chứng, chứng thực thì hãy yên tâm về tính bảo mật của di chúc bởi các quy định pháp luật trên. Ngoài ra, anh trai bạn cũng có thể liên hệ với luật sư để được tư vấn, soạn thảo và làm chứng cho việc lập di chúc.

  • Xem thêm     

    10/05/2012, 11:05:02 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn dung.nh!
               Bạn không nên hòa giải thành như vậy. Thông thường khi tham gia vụ án tranh chấp dân sự mà vụ án kết thúc bằng hòa giải thì chúng tôi thường nhận tiền ngay tại thời điểm lập biên bản hòa giải thành chứ không bao giờ chờ đến khi thi hành án. 
               Trong vụ việc này bạn có nhiều cơ hội thắng kiện do bên nhận đặt cọc vi phạm cam kết. Hơn nữa, nếu có tranh chấp thì họ sẽ không thể sang tên, chuyển nhượng cho người khác được (bạn hoàn toàn có căn cứ và tư thế để đàm phán). Nếu bạn đi đến cùng, phải nhờ đến thi hành án thì số tiền bạn nhận lại nhiều khả năng sẽ là 100 trđ chứ không phải là 50 trđ như hiện nay. Nay bạn nhận 50 trđ lại phải thông qua thủ tục thi hành án (không khác gì một bản án), trừ đi chi phí thi hành án thì số tiền còn lại của bạn bị "âm"!
             Hơn nữa, với số tiền ít như vậy thì việc phát mại tài sản có giá trị lớn đến thi thành án là rất khó thực hiện. Biên bản hòa giải thành như vậy là hoàn toàn có lợi cho bên kia. Trong vụ việc này rõ ràng ngay từ đầu đã có dấu hiệu không khách quan của phía Tòa án, vậy mà bạn không đề phòng về câu chữ trong biên bản thỏa thuận.
    Nếu còn thời hạn thay đổi (7 ngày) thì bạn nên thay đổi ý kiến để Tòa án tiếp tục giải quyết, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của bạn.
  • Xem thêm     

    10/05/2012, 10:39:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn ddlsvn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
             Nhà nước không cấp GCN QSD đất cho người đã chết, do vậy GCN QSD đất sẽ cấp cho các thừa kế của bố bạn. Gia đình bạn cần có văn bản thỏa thuận giữa các thừa kế của bố bạn về việc phân chia quyền sử dụng đất đó để làm căn cứ cấp GCN QSD đất.
            Nếu bạn là thừa kế duy nhất của bố bạn hoặc các thừa kế của bố bạn đồng ý nhường toàn bộ quyền sử dụng đất đó cho bạn thì bạn mới được cấp GCN QSD đất đứng tên toàn bộ thửa đất đó.
            Bạn có thể tham khảo quy định sau đây của Nghị định số84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007, cụ thể như sau:

            "Điều 12. Cấp Giấy chứng nhận đối với trường hợp cá nhân sử dụng đất chết trước khi trao Giấy chứng nhận

            Trường hợp người đứng tên nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận chết trước khi trao Giấy chứng nhận thì Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân cấp huyện để hủy Giấy chứng nhận đã ký và thông báo cho người được thừa kế bổ sung hồ sơ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 151 Nghị định số181/2004/NĐ-CP để được cấp Giấy chứng nhận.".

  • Xem thêm     

    10/05/2012, 10:11:08 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Bạn đang hỏi về "đòi lại quyền nuôi con". Vậy là bạn đã ly hôn và Tòa án giao con cho chồng bạn nuôi? Nếu bản án ly hôn đã xác định chồng bạn được trực tiếp chăm sóc con sau ly hôn thì bạn chỉ có thể yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con nếu có đủ chứng cứ chứng minh là chồng bạn không đảm bảo được quyền lợi mọi mặt của con. Cụ thể luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:

    Điều 93. Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

    Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

    Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không bảo đảm quyền lợi về mọi mặt của con và phải tính đến nguyện vọng của con, nếu con từ đủ chín tuổi trở lên.

               Nếu trong bản án, quyết định ly hôn đã xác định đứa trẻ đó là con bạn thì bạn không cần phải chứng minh quan hệ mẹ - con nữa.
               Chồng bạn không thể làm lại giấy khai sinh để thay tên bạn bằng người khác nếu chưa có văn bản của cơ quan có thẩm quyền xác định bạn không phải là mẹ để của em bé đó.
  • Xem thêm     

    10/05/2012, 02:19:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    #274e13;">Quyết định 1123/2011/QĐ-CTN, của Chủ tịch nước quy định về điều kiện được đề nghị đặc xá như sau:
    1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:
    a) Chấp hành tốt Nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành án phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
    b) #ff0000;">Đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù; đã chấp hành án phạt tù ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân, nếu sau khi đã được giảm xuống tù có thời hạn mà tiếp tục được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù thì thời hạn được giảm sau đó không được tính vào thời gian đã chấp hành án phạt tù;
    c) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác trừ những phạm nhân không bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng đã 70 tuổi trở lên hoặc trên 60 tuổi nhưng thường xuyên ốm đau hoặc người đang mắc bệnh hiểm nghèo mà bản thân người đó và gia đình không còn khả năng thực hiện.
    2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành án phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều này đã chấp hành án phạt tù ít nhất là một phần tư thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn; ít nhất là mười hai năm đối với hình phạt tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn, khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành án phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;
    b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân, Thầy thuốc nhân dân, Nghệ sỹ nhân dân; được tặng thưởng Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;
    c) Khi phạm tội là người chưa thành niên;
    d) Là người từ 70 tuổi trở lên;
    đ) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên ốm đau, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;
    e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;
    e) Nữ phạm nhân đang có thai hoặc có con nhỏ dưới 36 tháng tuổi đang ở với mẹ trong trại giam, trại tạm giam.
    * Các trường hợp không đề nghị đặc xá:
    Người có đủ điều kiện quy định tại Điều 3 của Quyết định này không được đề nghị đặc xá nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
    1. Bản án hoặc quyết định của Tòa án đối với người đó đang có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm;
    2. Đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội khác;
    3. Trước đó đã được đặc xá;
    4. Có từ hai tiền án trở lên;
    5. Phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia;
    6. Thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên sáu năm đối với người được quy định tại điểm b, khoản 1, Điều 3; trên tám năm đối với người được quy định tại khoản 2, Điều 3 Quyết định này.
    7. Phạm các tội về ma túy bị phạt tù đến bảy năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên một năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên bảy năm đến mười lăm năm mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên hai năm; phạm các tội về ma túy bị phạt tù trên mười lăm năm, tù chung thân mà thời hạn chấp hành án phạt tù còn lại trên ba năm;
    8. Có căn cứ khẳng định là đã sử dụng trái phép chất ma túy;
    9. Đồng thời phạm hai tội: giết người và cướp tài sản; giết người và hiếp dâm; giết người và hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản và hiếp dâm; cướp tài sản và hiếp dâm trẻ em;
    10. Phạm tội giết người có tổ chức; cướp tài sản có tổ chức hoặc có sử dụng vũ khí; cướp giật tài sản có tính chất chuyên nghiệp; cướp giật tài sản có tổ chức hoặc gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng;
    11. Có một tiền án hoặc đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục mà bị kết án phạt tù về một trong các tội sau đây: về ma túy; giết người; hiếp dâm trẻ em; cướp tài sản; cướp giật tài sản; cưỡng đoạt tài sản; lừa đảo chiếm đoạt tài sản; trộm cắp tài sản; bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản; mua bán phụ nữ; mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em; cố ý gây thương tích có tính chất côn đồ hoặc băng, nhóm thanh toán lẫn nhau.
              Theo thông tin bạn nêu thì bạn của bạn chấp hành hình phạt tù chưa được 1/3 thời hạn (02/9/2012) nên chưa đủ điều kiện xem xét đặc xá.
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 10:55:23 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Quyền ly hôn và các trường hợp ly hôn: Bố mẹ bạn có thể thuận tình ly hôn hoặc đơn phương ly hôn.
    - Nếu bố mẹ bạn
    cùng thống nhất yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn, thống nhất được việc chia tài sản và cử người nuôi dưỡng, chăm sóc con sau khi ly hôn thì Tòa án sẽ ra quyết định thuận tình ly hôn. Trước khi ra Quyết định thuận tình ly hôn thì Tòa án sẽ tiến hành hòa giải đoàn tụ. Nếu Hòa giải không thành thì Tòa án mới ra Quyết định.
    - Nếu không thống nhất được tất cả các nội dung trên thì một bên có quyền gửi đơn yêu cầu đơn phương ly hôn. Tòa án chỉ cho bố hoặc mẹ bạn được đơn phương ly hôn nếu người có đơn có đủ chứng cứ chứng minh được tình trạng hôn nhân là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình và hướng dẫn tại mục 8, Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000: Vợ chồng không quan tâm, chăm sóc nhau, bỏ mặc nhau, việc ai người đó làm (dửng dưng như người không quen); Hoặc ngược đãi, bạo lực gia đình; Hoặc ngoại tình mà đã được gia đình, cơ quan, đoàn thể hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả.
               2. Thủ tục ly hôn:
    Bố mẹ bạn cần chuẩn bị hồ sơ ly hôn như sau:
    - Đơn xin ly hôn;
    - CMND, Hộ khẩu hoặc xác nhận nơi cư trú của hai bên (Bản sao hoặc giấy xác nhận);
    - Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn (Bản chính);
    - Giấy khai sinh của các con (Bản sao);
    - Giấy tờ về tài sản (Bản sao);
    - Giấy tờ về các khoản nợ (nếu có);
    - Giấy tờ về việc hòa giải của gia đình, cơ quan, tổ chức (nếu có).
              Sau khi nhận đủ hồ sơ, Tòa án sẽ yêu cầu người có đơn đi nộp tiền tạm ứng án phí. Sau khi người có đơn xin ly hôn nộp tiền tạm ứng án phí tại Cơ quan thi hành án thì Tòa án ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các đương sự và VKSND cùng cấp. Sau đó Tòa án sẽ triệu tập các bên đến để hòa giải. Nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì Tòa án sẽ giải quyết cho ly hôn hoặc không cho ly hôn căn cứ vào quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình và Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP nêu trên. Nếu đơn phương ly hôn thì các bên phải cung cấp chứng cứ để bảo vệ cho quan điểm và yêu cầu của mình.
             3. Chia tài sản khi ly hôn:
             Điều 27 LNH&GĐ quy định:

    "Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.".
            Việc chia tài sản chung vợ chồng được quy định tại Điều 95 LNH&GĐ như sau:

            "Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết".
             Nếu ngôi nhà trên là tài sản chung của bố mẹ bạn (tạo lập trong thời kỳ hôn nhân...) thì sẽ được chia đôi theo quy định nêu trên.
              4. Giải quyết về con chung:
    Điều 92, Luật hôn nhân và gia đình quy định như sau:

    "Việc trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

    Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; nếu không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác.".

  • Xem thêm     

    09/05/2012, 10:19:27 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Khiếu kiện là quyền của công dân theo quy định pháp luật. Nếu họ khiếu kiện không đúng thì họ mất thời gian, công sức, chi phí, án phí... Còn nếu bạn cho rằng mình không có gì sai thì có thể không tham gia việc khiếu kiện đó thì sẽ không thấy bị làm phiền.
              Nếu họ cố tình loang tin, bịa đặt những chuyện mà biết rõ là không đúng sự thật nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của bạn thì họ có thể bị xử lý về hành vi vu khống. Còn nếu họ khiếu kiện dựa trên những mâu thuẫn, giao dịch dân sự có thật với gia đình bạn thì các cơ quan có thẩm quyền sẽ thụ lý và giải quyết khiếu kiện theo quy định pháp luật.
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 10:12:51 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
               1. Trách nhiệm hình sự: Điều 248 BLHS sửa đổi năm 2009 quy định:

    "Tội đánh bạc
    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật #ff0000;">có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
    a) Có tính chất chuyên nghiệp;
    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
    c) Tái phạm nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng."
            

               Theo thông tin bạn nêu thì số tiền sử dụng vào mục đích đánh bạc chỉ có 700.000 đồng (chưa đủ 2.000.000 đồng) do vậy các đối tượng trên chưa phạm tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS nên chỉ có thể bị xử lý hành chính theo quy định tại
    Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự.

                2. Mức độ xử lý hành chính:

              Theo quy định tại Điều 17 của Nghị định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, việc xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi đánh bạc (nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự) được quy định như sau:

    - Phạt tiền từ 200 nghìn đồng đến 500 nghìn đồng đối với hành vi mua các ô số lô, số đề.

    - Phạt tiền từ 500 nghìn đồng đến 1,5 triệu đồng đối với một trong các hành vi đánh bạc sau đây: Đánh bạc bằng một trong các hình thức như xóc đĩa, tá lả, tổ tôm, tú lơ khơ, tam cúc, 3 cây, tứ sắc, đỏ đen, cờ thế hoặc các hình thức khác mà được, thua bằng tiền, hiện vật; đánh bạc bằng máy, trò chơi điện tử trái phép; cá cược "cá độ" bằng tiền hoặc dưới các hình thức khác trong hoạt động thi đấu thể thao, vui chơi giải trí, các hoạt động khác; bán thơ đề, bán số lô, số đề.

    - Phạt tiền từ 2 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Nhận gửi tiền, cầm đồ, cho vay tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác; làm bảo vệ trái phép tại sòng bạc, nơi đánh bạc khác hoặc che giấu việc đánh bạc; làm thơ đề.

    - Phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 10 triệu đồng đối với một trong các hành vi tổ chức đánh bạc sau đây: Rủ rê, lôi kéo, tụ tập người khác để đánh bạc; dùng nhà của mình hoặc địa điểm khác để chứa bạc, gá bạc; đặt máy đánh bạc, trò chơi điện tử trái phép; tổ chức hoạt động cá cược ăn tiền.

    - Phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với một trong các hành vi tổ chức đánh đề sau đây: Làm chủ lô, đề; tổ chức sản xuất, phát hành bảng đề, ấn phẩm khác cho việc đánh lô, đề; tổ chức mạng lưới bán số lô, số đề; tổ chức các loại chơi cá cược "cá độ" trong hoạt động thi đấu thể dục thể thao, vui chơi giải trí hoặc dưới các hoạt động khác để đánh bạc, ăn tiền.

    Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức vi phạm còn có thể bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung như tịch thu tiền do vi phạm hành chính mà có và tịch thu tang vật, phương tiện.

    Người không đánh bạc nhưng tổ chức sản xuất và phát hành bảng đề thì cũng bị xử lý vi phạm hành chính với hình thức phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng.
            3. Trách nhiệm của gia đình bạn: Nếu gia đình bạn chứa chấp việc đánh bạc, biết việc đánh bạc nhưng vẫn cho họ đánh bạc tại nhà đất của mình thì mới liên đới và bị xử lý hành chính. Còn nếu việc đánh bài đó gia đình bạn không biết thì không bị xử lý hành chính theo quy định nêu trên.

  • Xem thêm     

    09/05/2012, 09:52:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
               Luật đất đai 2003 và các Nghị định, thông tư hướng dẫn không có quy định cụ thể để hạn chế quyền chuyển nhượng của chủ sử dụng đất khi đất nằm trong quy hoạch. Theo đó, trước khi có quyết định thu hồi đất, chủ sử dụng đất vẫn có thể chuyển nhượng cho người khác.
               Tuy nhiên, ở một số địa phương, UBND cấp tỉnh có thể ban hành văn bản về việc hạn chế chuyển nhượng, tách thửa đất đối với những thửa đất nằm trong quy hoạch sắp triển khai. Do vậy, bạn cần tìm hiểu xem UBND cấp tỉnh nơi có đất của bạn đã có văn bản hạn chế việc chuyển nhượng đất trong khu quy hoạch đó chưa (thông thường chỉ hạn chế tách thửa, còn chuyển nhượng cả thửa thì ít khi bị hạn chế).
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 01:32:54 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
              1. Thời hạn của hợp đồng là khoảng thời gian các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo thỏa thuận tại Hợp đồng đã được hai bên giao kết. Do vậy thời hạn thực hiện hợp đồng là khoảng thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Hợp đồng của công ty bạn thỏa thuận như vậy là mâu thuẫn, sẽ gây tranh cãi và phức tạp khi có tranh chấp. Nếu như trước đây các bên đã có thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến hợp đồng thì có thể thừa nhận những quyền và nghĩa vụ đó trong một điều khoản của Hợp đồng. Trước khi có tranh chấp xảy ra thì hai công ty có thể lập phụ lục để sửa đổi, bổ sung nội dung này cho rõ ràng, dễ hiểu và đúng pháp luật.
                2. Pháp lệnh ngoại hối quy định trong lãnh thổ Việt Nam, việc niêm yết, quảng cáo, giao dịch, thanh toán bằng ngoại hối đều không được phép trừ một số trường hợp cụ thể mà pháp luật có quy định. Nếu Hợp đồng thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì Hợp đồng vô hiệu toàn bộ (có một số quan điểm cho rằng chỉ vô hiệu một phần. Tuy nhiên, thực tiễn Tòa án thường tuyên bố hợp đồng vô hiệu toàn bộ do vi phạm quy định về quản lý ngoại hối.). Nếu hợp đồng chỉ dùng ngoại tệ làm giá trị quy đổi khi thanh toán, còn việc thanh toán thực tế là tiền Việt thì hợp đồng không bị vô hiệu.
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 01:12:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu bạn bác bạn cố tình không đưa hộ khẩu cho bạn để thực hiện thủ tục tách hộ khẩu thì gia đình bạn có thể liên hệ với công an cấp quận để xác nhận về hộ khẩu làm căn cứ cắt chuyển hộ khẩu.
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 01:09:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Đề nghị chuyển câu hỏi sang mục cùng thảo luận
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 12:12:53 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Luật sư Đặng  Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:
    1. Theo thông tin bạn nêu thì nhà đất mà gia đình bạn đang ở là "đất của ông bà từ xưa". Tuy nhiên, bạn chưa nói rõ là do cha ông để lại cho ông bà hay ông bà được chính quyền giao đất hay giao cho hộ gia đình nên chưa đủ căn cứ xác định nhà đất đó là tài sản của ông bà hay tài sản chung của hộ gia đình. Bạn cần xem lại hồ sơ địa chính xem qua các thời kỳ sổ quản lý đất đai ghi tên ai?
    2. Ông bạn đã mất từ lâu là từ khi nào? Đã quá 10 năm chưa? Nếu ông bạn đã chết quá 10 năm thì hết thời hiệu khởi kiện tranh chấp về thừa kế đối với di sản do ông bạn để lại. Tuy nhiên, phần tài sản của bà nội bạn thì bà bạn vẫn có quyền đòi lại. Bà nội bạn có thể là chủ sở hữu 1/2 nhà đất đó (nếu đất là tài sản chung của ông bà) hoặc đòi lại một phần nhà đất (<1/2 nếu nhà đất đó là tài sản chung của hộ gia đình).
    3. Mẹ bạn và các anh chị em bạn có quyền đối với phần di sản thừa kế mà bố bạn được hưởng từ ông nội bạn do vậy nếu không có chữ ký của mẹ con bạn thì thửa đất đó không thể được cấp GCN QSD đất. Do vậy, cách tốt nhất là gia đình bạn nên thương lượng thỏa thuận phân chia nhà đất đó để làm luôn GCN QSD đất cho các thành viên trong gia đình (có thể gia đình bạn 1/2 hoặc 1/3 nhà đất. Phần còn lại của bà và các chú)
  • Xem thêm     

    09/05/2012, 11:30:44 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Với lãi suất đó thì chưa đủ căn cứ để khởi tố hình sự người cho vay về tội cho vay nặng lãi theo quy định tại  Điều 163 BLHS (chỉ bị coi là cho vay lãi nặng khi thỏa mãn hai yếu tố: cho vay với mức lớn hơn từ 10 lần trở lên mức lãi suất cao nhất mà Ngân hàng Nhà nước quy định và phải có tính chất chuyên bóc lột).
             Ngoài ra, hoàn toàn không hề có quy định xử lý hành chính, trong đó có các biện pháp xử phạt hành chính bằng tiền đối với các hành vi cho vay lãi nặng!? Đây là là một thực tiễn khó hiểu của pháp luật Việt Nam. Tất cả các hành vi vi phạm pháp luật, nhất là chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đều có các nghị định xử phạt hành chính hỗ trợ. Đến nay, chỉ có duy nhất nghị định 202/2004/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng thì lại không áp dụng cho các cá nhân cho vay lãi hoặc huy động vốn lãi suất cao, nghị định này chỉ áp dụng cho các tổ chức tín dụng hợp pháp. Nghị định 73/2010/NĐ-CP quy định xử phạt hành chính về an ninh và trật tự, an toàn xã hội cũng không có nhóm hành vi vi phạm về cho vay lãi nặng. Do vậy, khi có tranh chấp Tòa án sẽ không thừa nhận số lãi suất vượt quá lãi suất của Nhà nước quy định tại thời điểm cho vay. Còn việc xử lý hành chính đối với hành vi cho vay nặng lãi mà chưa đến mức xử lý hình sự không thể thực hiện được - Do luật chưa có quy định.