Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    07/11/2011, 07:43:17 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
          Nếu họ trốn mất thì bạn có thể báo công an, nếu có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì công an sẽ khởi tố vụ án và phát lệnh truy nã để truy tìm đối tượng đó.
          Nếu bạn khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự (kiện đòi tài sản) thì bạn phải cung cấp địa chỉ của bị đơn thì Tòa án mới thụ lý.
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 07:37:44 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Không có gì, chào bạn!
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 06:27:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư nhất trí với ý kiến của bạn!
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 09:52:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:
            1. Gia đình bạn cần xem lại Hợp đồng chuyển nhượng và thủ tục chuyển nhượng QSD đất năm 1992 với diện tích 6259m2 đất đó: Nếu hợp đồng chuyển nhượng hợp pháp và thủ tục chuyển nhượng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật thì UBND huyện không thể thu hồi GCN QSD đất của gia đình bạn (Việc thu hồi đất chỉ được thực hiện theo quy định tại Điều 38 Luật đất đai). Nếu UBND huyện thu hồi GCN QSD đất của gia đình bạn trái pháp luật thì gia đình bạn có quyền khiếu nại theo thủ tục khiếu nại, tố cáo hoặc khởi kiện theo thủ tục tố tụng hành chính;
             2. Thủ tục khiếu nại, khởi kiện như sau:
    a. Thủ tục khiếu nại:
    - Gia đình bạn cần làm đơn khiếu nại quyết định thu hồi GCN QSD đất đó trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được Quyết định thu hồi GCN QSD đất đó (Điều 31, luật KN, TC) gửi tới Chủ tịch UBND huyện; Gia đình bạn cần gửi các chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện để người có thẩm quyền xem xét;
    - Trong thời hạn 30 ngày (vụ việc phức tạp thì 45 ngày) Chủ tịch UBDN huyện phải có trách nhiệm giải quyết. Nếu Chủ tịch UBND huyện không giải quyết hoặc có giải quyết nhưng bạn thấy không thỏa đáng thì bạn có quyền khiếu nại tiếp theo đến Chủ tịch UBND cấp tỉnh để giải quyết hoặc khởi kiện ra Tòa án hành chính;
    - Trong trường hợp bạn khiếu nại lần hai mà trong thời hạn 45 ngày (Vụ việc phức tạp thì 60 ngày) mà Chủ tịch UBND tỉnh không giải quyết hoặc giải quyết không thỏa đáng thì trong thời hạn 1 năm bạn có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng hành chính.
    b. Thủ tục khởi kiên;
    - Bạn có thể khiếu nại trước khi khởi kiện hoặc khởi kiện luôn một vụ án hành chính mà không cần phải khiếu nại (Quy định mới của Luật tố tụng hành chính 201);
    - Bạn cần làm đơn khởi kiện nêu rõ đối tượng khởi kiện, người bị kiện và yêu cầu khởi kiện gửi đến TAND cấp huyện để được giải quyết. Bạn nhớ gửi các chứng cứ kèm theo đơn kiện.
    - Nếu Tòa án huyện giải quyết không thỏa đáng thì bạn có quyền kháng cáo để TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục phúc thẩm. Bạn có thể xem thêm Luật tố tụng hành chính năm 2011 để được biết thêm chi tiết.
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 08:38:03 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Luật sư đã trả lời!
  • Xem thêm     

    07/11/2011, 07:52:18 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư trả lời bạn như sau:
              1. Thông tin mà bạn nêu ra không thống nhất:
    Lúc đầu bạn nói là "Căn nhà của Ba-Mẹ tôi là căn nhà cấp 2 , đã xuống cấp , nên năm 2001 tôi và 01 người chị bỏ tiền ra xây dựng thành nhà cấp 2 nhưng chủ quyền nhà vẫn là do Ba tôi đứng tên .". Bây giờ thì bạn lại nói là "Giấy Chứng Nhận Quyền sở hữu nhà ở và sử dụng đất ở cấp vào ngày 05/01/2009 có tên của Ba Tôi và 05 người con...". Vậy sự kiện nào đã làm thay đổi nội dung Giấy chứng nhận như vậy? (lúc đầu tên ba bạn, bây giờ lại tên 6 người?). Ngôi nhà trước đây là do ba mẹ bạn xây, sau đó hai chị em bạn xây lại, còn nguồn gốc thửa đất đó thế nào? (Được chính quyền giao cho hộ gia đình? hay ba mẹ bạn mua? hay cha ông để lại?).
    Bạn cần khẳng định lại những thông tin trên để Luật sư có thể tư vấn chính xác cho bạn.
             2. Nếu GCN QSH nhà và QSD đất đứng tên 6 người (ba bạn + 5 con)  được cấp đúng pháp luật thì ngôi nhà đó là tài sản chung của 6 người có tên đó. Đồng thời phần di sản mà chị em bạn được hưởng chỉ là 1/6 giá trị nhà đất. Nếu GCN có tên 6 người được cấp không đúng pháp luật thì chị em bạn có quyền yêu cầu UBND hủy GCN đó để cấp lại cho đúng pháp luật (có thể khi đó sẽ có lợi hơn cho bạn);
             3. Hai chị em bạn chỉ có thể sang tên căn nhà đó theo di chúc nếu toàn bộ nhà đất đó là di sản do ba bạn để lại;
             4. Theo thông tin mà bạn mới cung cấp thì các anh chị em khác của bạn cũng có tên trên GCN QSD đất & QSH nhà ở do vậy quyền sở hữu tài sản của họ đã được xác lập (do thừa kế hoặc do được Nhà nước giao đất, công nhận QSD đất). Trong trường hợp này nhà đất đó là tài sản thuộc sở hữu chung của những người có tên trong GCN nên việc định đoạt nhà đất đó phải có sự đồng thuận của tất cả các đồng sở hữu thì mới hợp pháp.
             5. Mẹ bạn đã chết quá 10 năm nên đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế theo quy định của pháp luật. Theo quy định pháp luật thì Tòa án không thụ lý những vụ án tranh chấp thừa kế nếu đã hết thời hiệu khởi kiện về thừa kế. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc người đang quản lý được quyền sở hữu di sản đó. Họ chỉ có thể được tiếp tục sử dụng chứ không được phép định đoạt.
           Hiện nay pháp luật VN chưa có quy định cụ thể về vấn đề này nên trước khi có quy định mới của pháp luật thì những người đang quản lý di sản chỉ có thể được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đó sau 30 năm (xác lập QSH tài sản theo thời hiệu).
           Bạn cần cung cấp lại thông tin xem phần di sản của mẹ bạn đã được phân chia chưa? Nếu lúc đầu GCN đứng tên ba mẹ bạn, sau khi mẹ bạn chết thì gia đình xin cấp lại GCN và GCN cấp sau có tên tất cả các con thì chứng tỏ di sản của mẹ bạn đã được phân chia cho các thừa kế rồi!...
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 10:05:50 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
           1. Nếu "nạn nhân" từ đủ 16 tuổi trở lên thì "tác giả" đó không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nói cách khác, pháp luật hình sự không điều chỉnh quan hệ tình dục tự nguyện mà các đối tượng đã từ đủ 16 tuổi. Sự việc đó dành cho quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân gia đình và đạo đức, dư luận xã hội lên tiếng.
           2. Nạn nhân có thể khởi kiện để Tòa án dân sự xác định quan hệ cha con giữa cái thai vô tội kia với "tác giả" của nó. Khi đã xác định đúng "chủ nhân" của em bé đó thì Tòa án sẽ buộc "tác giả" đó phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em bé đó đến khi trưởng thành.
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 09:03:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
     Chánh Tòa là người đứng đầu tòa chuyên trách của TAND cấp tỉnh. Bạn đọc Luật tổ chức Tòa án để biết cụ thể.
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 09:01:14 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Vâng, chào bạn!
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 03:35:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Với thông tin sơ lược, một chiều thì chưa thể biết được hình phạt cụ thể. Hình phạt sẽ được Tòa án áp dụng căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ở nước ta thì những tình tiết phải được thể hiện tại Hồ sơ vụ án.
            Với những thông tin một chiều thì Luật sư chỉ có thể "đoán" được tội phạm và khung hình phạt, còn mức hình phạt thì phải kết thúc giai đoạt điều tra thì mới biết được.
            Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra vận dụng mọi kỹ năng nghiệp vụ, thu thập chứng cứ (kết tội, buộc tội) để  "trả lời câu hỏi" đó của bạn. Khi họ chưa hoàn thành công việc điều tra thì chưa thể có câu trả lời cho bạn. Viện kiểm sát cũng chỉ ra bản CÁO TRẠNG sau khi có Kết luận điều tra. Tóm lại, nếu tham gia vụ việc và sau khi đọc hồ sơ vụ án thì Luật sư mới có thể trả lời câu hỏi này của bạn.
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 03:23:45 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào em!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của em như sau:

           1. Tài sản chung trong gia đình thường có hai loại là TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG và TÀI SẢN CHUNG CỦA HỘ GIA ĐÌNH. Với tài sản chung vợ chồng thì khi ly hôn chỉ chia đôi, mỗi người một nửa. Còn tài sản chung của hộ gia đình thì mới chia đều cho các thành viên.
           Theo thông tin mà em đưa ra thì tài sản đó có nguồn gốc là của ngoại em cho mẹ em, sau đó để ba em được đứng tên cùng (không phải đất được giao cho hộ gia đình sử dụng...), thời gian từ đó đến nay em và em gái em rất nhỏ không có công sức gì đáng kể... do vậy theo quy định của pháp luật ngôi nhà đó là tài sản chung vợ chồng giữa cha và mẹ em. Nếu ly hôn thì tài sản đó sẽ được chia đôi nhưng có tính đến công sức của mẹ em.
            2. Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung vợ chồng và phân chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn như sau:

    “Điều 27. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa  thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa  thuận.

    Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

    2. Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó là tài sản chung.

    Điều 28. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung

    1. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng.

     3. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa  thuận, trừ tài sản chung đã được chia để đầu tư kinh doanh riêng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

    Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề  nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa  thuận; nếu không thỏa  thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.”

              Như vậy, tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung hoặc tài sản riêng nhưng sau đó nhập vào tài sản chung (trước đó đứng tên một bên nhưng làm lại GCN thì đứng tên cả hai bên hoặc có văn bản thỏa thuận nhập tài sản riêng vào tài sản chung). Khi ly hôn thì tài sản chung sẽ được chia đôi như quy định tại Điều 95 LHN&GĐ chứ không phải chỉ chia công sức 35 năm chung sống như “người ta” nói với em.

             3. Để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho mẹ em thì mẹ em nên mời Luật sư tham gia vụ việc hoặc tư vấn trực tiếp cho mẹ em để xử lý các tình huống pháp lý một cách tốt nhất... Còn nếu cứ theo nguyên tắc và theo quy định của pháp luật thì việc Tòa án chia đôi ngôi nhà đó và các tài sản chung khác khi ly hôn là khó tránh khỏi. Tốt nhất là mẹ em gặp trực tiếp Luật sư ở địa phương em để tiện cho công việc.

             4. Việc ba em đánh đập em như vậy là biểu hiện của bạo lực gia đình, bởi vậy em có thể liên hệ với trung tâm phòng chống bạo lực gia đình và chính quyền địa phương để được trợ giúp.

  • Xem thêm     

    05/11/2011, 09:55:31 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           1. Việc xác định quan hệ pháp luật dân sự hay quan hệ pháp luật hình sự nhiều khi  không đơn giản, kể cả với các "chuyên gia" về pháp luật. Trong thực tiễn ranh giới giữa quan hệ  pháp luật dân sự với quan hệ pháp luật hình sự (tội phạm) rất mong manh và không dễ phân biệt.
           Trong vụ việc của bạn, về mặt lý thuyết thì có thể cấu thành tội phạm nhưng thực tế thì ít trường hợp bị khởi tố: Nếu bạn giả mạo chữ ký của mẹ bạn để sang tên nhà đất
    rồi thế chấp Ngân hàng để vay tiền hoặc bán lại cho người khác nhằm chiếm đoạt tài sản thì hành vi đó của bạn là phạm tội. Nếu bạn giả mạo chữ ký để sang tên căn nhà đó nhưng ngôi nhà từ trước tới nay vẫn do bạn sử dụng hoặc vẫn do mẹ bạn đang sử dụng thì chưa đủ căn cứ để khởi tố hình sự.
            Việc giả mạo chữ ký để sang tên nhà đất xảy ra không ít nhưng không phải trường hợp nào cũng phạm tội (bạn có thể trình bày nội dụng cụ thể hơn để Ls tư vấn chính xác cho bạn).
          2. Nếu mẹ bạn gửi đơn ra Tòa án thì Tòa án yêu cầu hủy hợp đồng tặng cho do giả mạo chữ ký thì Tòa án sẽ thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Sau khi xem xét Tòa án sẽ trưng cầu giám định chữ ký trong văn bản tặng cho đó. Nếu Kết luận giám định là chữ ký không phải do mẹ bạn ký thì Tòa án sẽ xác định hợp đồng vô hiệu và kiến nghị UBDN hủy GCN của bạn và buộc bạn phải trả lại nhà đất đó cho mẹ bạn. Trong trường hợp này bạn hoàn toàn có lỗi làm cho HĐ vô hiệu và phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã gây ra cho mẹ bạn và những người có liên quan.
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 09:02:04 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:  
        
    1. Theo thông tin  mà bạn cung cấp thì hanh vi đó có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Nếu mục đích chiếm đoạt tiền của bạn xuất hiện trước khi thỏa thuận góp vốn thì là hành vi lừa đảo, còn nếu mục đích chiếm đoạt xuất hiện sau khi họ nhận được tiền của bạn thì hành vi đó cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

    Với thông tin một chiều mà bạn đưa ra thì chưa thể xác định chính xác tội danh của người đó. Do vậy bạn cần trình báo toàn bộ sự việc trên với công an để được giải quyết. Sau khi xác minh sự việc, yêu cầu người kia viết tường trình, công an sẽ xác định là có dấu hiệu tội phạm hay không và chính xác là tội gi.

    2. Ngoài việc báo công an, bạn cũng có thể sử dụng cách khác để lấy lại tiền đó là ủy quyền cho người khác thay mặt bạn để "thu hồi nợ" theo quy định pháp luật. Những người đó có chuyên môn, kinh nghiệm đòi nợ hơn bạn nên họ có thể lấy lại số tiền đó giúp bạn. Hoặc bạn cũng có thể khởi kiện một vụ án dân sự để đòi lại số tiền đã giao cho người kia.

    Chúc bạn thành công! (Lưu ý là bạn hãy viết nội dung hỏi Luật sư bằng tiếng Việt, có dấu)
  • Xem thêm     

    05/11/2011, 08:40:51 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Đó cũng là một cách để bạn lấy lại tài sản. Tuy nhiên, nếu gia đình họ không đồng ý bồi thường hoặc không đồng ý trả xe thì bạn phải báo công an nơi sự việc xảy ra để giải quyết. Công an địa phương chỉ có thẩm quyền giải quyết khi sự việc mượn xe xảy ra trên địa phương đó.
  • Xem thêm     

    04/11/2011, 09:49:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Việc cấu thành tội cướp tài sản hay không phụ thuộc vào khả năng chống cự của nạn nhân. Nếu việc chống cự đó không đủ sức để bảo vệ tài sản, kết quả vẫn LÂM VÀO TÌNH TRẠNG KHÔNG THỂ CHỐNG CỰ ĐƯỢC thì vẫn cấu thành tội cướp tài sản. Còn nếu bị nạn nhân chống cự nhưng nhưng yếu ớt, thủ phạm vẫn giật được tài sản và nhanh chóng tẩu thoát thì sẽ thành tội Cướp giật tài sản. Còn nếu nạn nhân chưa tê liệt ý chí mà chỉ bị đối tượng ép buộc để giao tài sản (có thể giao, có thể không) thì phạm tội Cưỡng đoạt tài sản.
            Tóm lại việc nạn nhân có chống cự hay không không quan trọng, điều quan trọng là cuối cùng nạn nhân bất lực, tê liệt ý trí trước việc dùng vũ lực, sự đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác (thuốc mê, thuốc độc..) của đối tượng đó thì trường hợp đó phạm tội Cướp tài sản theo Điều 133 BLHS.
  • Xem thêm     

    04/11/2011, 09:33:41 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào em !
          Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời em như sau:
         1. Đối với ngôi nhà:
          Nếu ngôi nhà đó được tạo lập sau khi ba mẹ em kết hôn thì là tài sản chung của ba mẹ em và nếu một bên có yêu cầu chia tài sản thì Tòa án sẽ giải quyết và chia đôi theo quy định pháp luật.
         Tuy nhiên, căn nhà đó hiện nay chưa được cấp GCN QSD đất nên Tòa án sẽ triệu tập người bán nhà đất cho ba mẹ em xem họ có ý kiến gì không?
         - Nếu người bán nhà đất đó không có ý kiến gì, đồng thời thửa đất đó có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai thì Tòa án mới có thể công nhận là tài sản chung của ba mẹ em và phân chia tài sản chung.
         - Nếu người chủ đất cũ có tranh chấp hợp đồng mua bán viết tay đó thì Tòa án sẽ giải quyết yêu cầu độc lập của họ, sẽ xem xét giá trị pháp lý của hợp đồng mua bán viết tay đó (bạn tìm đọc bài mua đất bằng giấy tay của tôi thì sẽ biết được giá trị pháp lý của giấy mua đất của mẹ bạn).
          Nếu hợp đồng vô hiệu thì nhà đất đó sẽ được trả cho chủ cũ, nếu Tòa án công nhận hợp đồng thì khi đó mới thành tài sản chung của ba mẹ bạn và chấp nhận yêu cầu chia tài sản.
           2. Đối với tiệm hớt tóc:
          Tiệm hớt tóc đó không phải là tài sản của ba mẹ bạn nên  Tòa án sẽ không chia mà có thể chỉ chia quyền sử dụng trong thời hạn thuê. Tiệm hớt tóc đó là mẹ bạn thuê của Nhà nước hay thuê của tư nhân? Thời hạn hợp đồng bao nhiêu năm? Nếu hợp đồng thuê chưa hết thời hạn thì có thể mẹ bạn sẽ được ưu tiên sử dụng tiệm hớt tóc đó trong thời gian thuê (đảm bảo khai thác hiệu quả diện tích cửa hàng đó và đúng mục đích sử dụng trong thời hạn thuê). Trong trường hợp này, Tòa án cũng sẽ triệu tập Bên cho thuê cửa hàng để lấy ý kiến của họ.
           3. Mẹ bạn có công sức lớn hơn trong việc tạo lập tài sản chung nên có thể sẽ được "ưu ái" hơn khi chia tài sản.
  • Xem thêm     

    04/11/2011, 09:03:14 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Hành vi của người đó có thể phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS. Do vậy muốn lấy lại chiếc xe đó bạn cần trình báo công an nơi vụ việc xảy ra để công an tìm xe giúp bạn. Bạn chỉ cần cung cấp địa chỉ thôn, xã người đó là được, không cần phải có số nhà. Điều quan trọng là phải tìm ra manh mối xem người đó đang trốn ở đâu. Hi vọng qua bạn bè, người thân và các mối quan hệ của người đó, công an sẽ tìm ra người đó để trả lại tài sản cho bạn.
  • Xem thêm     

    04/11/2011, 08:14:02 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn"
            Nếu thửa đất của gia đình bạn được ghi trong hồ sơ địa chính là đất ở từ sau ngày 15/10/1993 thì thuộc trường hợp quy định tại Điều 15, Nghị định 84/2004/NĐ-CP, cụ thể như sau:

    "Điều 15. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đất do hộ gia đình, cá nhân sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai nhưng đất đã được sử dụng trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này, nay Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch đã được xét duyệt hoặc chưa có quy hoạch được xét duyệt tại thời điểm làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau đây:

    a) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở thì phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP đối với diện tích đất ở đang sử dụng nhưng không vượt quá hạn mức giao đất ở cho mỗi hộ gia đình, cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận; đối với diện tích đất ở thực tế ngoài hạn mức (nếu có) thì phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại điểm b khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP;

    b) Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có công trình xây dựng (không phải là nhà ở) thì phải xác định diện tích đất phi nông nghiệp và diện tích đất nông nghiệp theo hiện trạng sử dụng. Người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất đối với diện tích đất phi nông nghiệp theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP; giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp cùng loại;

    c) Đối với phần diện tích đất được xác định là đất nông nghiệp thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định này".

    Khoản 3, Điều 8, Nghị định 198/2004/NĐ-CP quy định: "3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ở do tổ chức sử dụng đất được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước cho thuê đất, tự chuyển mục đích sử dụng đất sang làm đất ở và đã phân phối đất ở đó cho cán bộ, công nhân viên của tổ chức trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì thu tiền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định này, cụ thể như sau:
    a) Thu tiền sử dụng đất bằng 50% tiền sử dụng đất đối với diện tích trong hạn mức giao đất ở; quy định này chỉ được thực hiện một lần đối với hộ gia đình, cá nhân; lần giao đất sau thu 100% tiền sử dụng đất;
    b) Thu tiền sử dụng đất bằng 100% tiền sử dụng đất đối với diện tích vượt hạn mức giao đất ở."

    Như vậy, nếu trường hợp sử dụng đất của gia đình bạn thuộc trường hợp quy định tại Điều 15 Nghị định 84 thì diện tích  đất trong hạn mức, gia đình bạn phải nộp 50% tiền sử dụng đất, ngoài hạn mức thì nôp 100% tiền sử dụng đất. Bạn cần kiểm tra lại hồ sơ địa chính xem trong bản đồ và sổ mục kê qua các thời kỳ thể hiện nguồn gốc thế nào. Bạn lưu ý là pháp luật không quy định nộp TIỀN SỬ DỤNG NHÀ mà chỉ quy định nộp TIỀN SỬ DỤNG ĐÂT khi cấp giấy chứng nhận QSD đất hoặc giao đất. Do vậy, thời điểm xây nhà của gia đình bạn có thể chỉ liên quan đến loại đất (đất ở) khi cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    03/11/2011, 09:30:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời câu hỏi của bạn như sau:

          1. Điều 138 BLHS quy định Tội trộm cắp tài sản như sau:

    1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

              2. Theo thông tin mà bạn nêu ra thì hành vi trộm cắp tài sản trên thuộc khoản 1 Điều 138 BLHS và có các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, h và p khoản 1, Điều 46 BLHS. Nếu không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS thì bạn đó có thể bị xử ở mức thấp nhất của khung hình phạt và có thể được hưởng án treo.
  • Xem thêm     

    03/11/2011, 09:08:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Sử dụng ổn định là "Đất đã được sử dụng liên tục cho một mục đích chính nhất định. Nếu từ 1975 đến 1996 trong sổ mục kê ghi là đất ao, từ năm 1996 đến nay ghi là đất ở thì việc sử dụng liên tục vào mục đích đất ở chỉ được tính từ năm 1996 đến nay. Trong trường hợp này bạn phải nộp tiền sử dụng đất khi cấp GCN.
            Nếu thực tế sử dụng đất là làm nhà ở nhưng không có giấy tờ gì chứng minh là đã được phép chuyển sang đất ở, hồ sơ địa chính vẫn là đất ao thì gia đình bạn chỉ được cấp GCN là đất nông nghiệp (đất ao). Nếu gia đình bạn được cấp GCN là đất ở (cho phép chuyển mục đích sử dụng đất theo hiện trạng phù hợp với quy hoạch) thì gia đình bạn phải nộp tiền sử dụng đất theo giá chênh lệnh giữa đất ở và đất nông nghiệp... Bạn có thể tìm hiểu thêm các quy định tại Thông tư 93/2011/TT-BTC ngày 29/6/2011 của Bộ tài chính về việc thu tiền sử dụng đất và Quyết định của UBND thành phố HCM quy định về việc cấp GCN QSD đất trên địa bàn thành phố để biết thêm chi tiết.