tranvinh_61 viết:
Theo tôi , bạn TranVoThienThu lập luận dựa vào sự suy diễn các hướng dẫn tại Tiểu Mục 2.1, Mục 2, NQ 01 , bất chấp quy định rõ ràng , đầy đủ của Cơ quan Lập pháp là không đúng Pháp luật . Nhóm A không hiểu vô tình hay cố ý đã “lầm lẫn tai hại” giữa 2 khái niệm: thời hiệu khởi kiện ( thời hạn ) và thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện ( thời điểm bắt đầu) . Xin chú ý sự khác nhau giữa 2 khái niệm : thời hạn & thời điểm bắt đầu thời hạn .
Để tránh nói suông , tôi một lần nữa xin phân tích các Tiểu Mục 2.1 và 2.2 , Mục 2 , Phần IV, NQ 01 :
* Nếu đọc toàn bộ Mục 2 thì thấy rằng : Tiểu Mục 2.1 hướng dẩn cách tính thời hạn ( thời hiệu khởi kiện ) ; Tiểu Mục 2.2 hướng dẩn cách tính thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện ( thời điểm bắt đầu của thời hạn- thời hiệu ) .
* Theo Tiểu Mục 2.1 :
“ 2.1. Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
. . . .
b) Đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 159 của BLTTDS về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Tuy nhiên, cần phân biệt như sau:
b1) Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;
b2) Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm; . . . .”
Theo trên thì rõ ràng : hướng dẩn tại tiểu mục này chỉ là hướng dẩn về thời hạn ( thời hiệu khởi kiện ) , không có từ ngữ nào hoặc ý nào có thể “liên tưởng” đến thời điểm bắt đầu thời hiệu . Ngay cả cách dùng từ ngữ trong NQ 01 cũng đã nhấn mạnh và nói rõ điều này : dùng từ “thời hạn” để diển đạt ý "một khoản thời gian" như định nghĩa về thời hiệu trong Luật . Như vậy , với câu “Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;” phải được hiểu đúng như sau : với tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005 , nếu từ ngày 1/1/2005 trở đi mà đương sự trong vụ việc có yêu cầu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện sẽ được tính là 02 năm ( vì BLTTDS có hiệu lực ngày 1/1/2005 nên nếu có yêu cầu khởi kiện trước 1/1/2005 thì không được áp dụng quy định cùa Điều 159 ). Xin chú ý : thời hiệu khởi kiện (thời hạn) là 02 năm kể từ ngày 1/1/2005 - không đồng nghĩa - với thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày 1/1/2005 .
Như vậy, Tiểu Mục 2.1 chỉ hướng dẩn cách tính thời hạn- thời hiệu khởi kiện , nếu có ai đó thắc mắc việc phải tính thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện như thế nào để cho vấn đề được giải quyết trọn vẹn thì "xin mời ". . . xem tiếp Tiểu Mục 2.2 .
* Theo Tiểu Mục 2.2 :
“ 2.2. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện:
a) Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a1) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ: không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm; . . . ”
Qua phân tích nêu trên , rõ ràng các hướng dẩn của NQ 01 là hoàn toàn phù hợp với quy định Pháp luật hiện hành , cụ thể là NQ 32 và Điều 159, như vậy , lập luận và kết luận của nhóm A về thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện khi giải thích Tiểu Mục 2.1, Mục 2, NQ 01 là không đúng cả về mặt ngữ nghĩa và tinh thần Luật .
Do đó, theo khách quan mà nói thì việc vận dụng thêm NQ 01 vào cho trường hợp đang tranh luận này là hoàn toàn không cần thiết !
Riêng ý kiến trên đây của anh
tranvinh_61 thì tôi xin phép phát biểu rằng tôi không thể đồng tình!
Tôi xin đưa nguyên văn đoạn trích trong Nghị quyết số 01/2005 của HĐTP rồi chúng ta bàn tiếp:
NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
(Số: 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 03 năm 2005)
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung"
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
......
2. Về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu quy định tại khoản 3 Điều 159 của BLTTDS
2.1. Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự được thực hiện như sau:
a) Đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu, thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật đó.
Ví dụ 1: Đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì theo quy định tại Điều 30 của Luật kinh doanh bảo hiểm, thời hiệu khởi kiện về hợp đồng bảo hiểm là ba năm, kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp.
Ví dụ 2: Đối với các tranh chấp về lao động thì thời hiệu khởi kiện các tranh chấp được quy định tương ứng tại Điều 167 của Bộ luật Lao động.
Ví dụ 3: Đối với yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam, thì thời hiệu yêu cầu được quy định tại Điều 360 của BLTTDS.
Ví dụ 4: Đối với các tranh chấp và yêu cầu tuyên bố hợp đồng dân sự vô hiệu, thì thời hiệu yêu cầu được quy định tại Điều 145 của BLDS.
b) Đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 159 của BLTTDS về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu. Tuy nhiên, cần phân biệt như sau:
b1) Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;
b2) Nếu tranh chấp phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b3) Nếu quyền yêu cầu phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày 01/01/2005;
b4) Nếu quyền yêu cầu phát sinh từ ngày 01/01/2005, thì thời hạn một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu.
2.2. Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện:
a) Thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm và được xác định như sau:
a1) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định thời hạn thực hiện, nếu hết thời hạn đó mà bên có nghĩa vụ: không thực hiện, thì ngày hết hạn thực hiện nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm;
a2) Đối với nghĩa vụ dân sự mà các bên không thỏa thuận hoặc pháp luật không quy định thời hạn thực hiện, nhưng theo quy định của pháp luật các bên có thể thực hiện nghĩa vụ hoặc yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bất cứ lúc nào nhưng phải thông báo cho nhau biết trước trong một thời gian hợp lý, nếu hết thời hạn đã được thông báo đó bên có nghĩa vụ không thực hiện, thì ngày hết thời hạn đã được thông báo là ngày xảy ra vi phạm;
a3) Trường hợp khi hết hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự, các bên có thỏa thuận kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ đó, thì việc xác định ngày vi phạm căn cứ vào ngày chấm dứt thỏa thuận của các bên và được thực hiện như hướng dẫn tại điểm a1 và điểm a2 tiểu mục 2.2 này;
a4) Trong quá trình thực hiện hợp đồng mà có vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, thì ngày vi phạm nghĩa vụ là ngày xảy ra vi phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Nếu một bên đơn phương đình chỉ hợp đồng thì ngày đơn phương đình chỉ hợp đồng là ngày vi phạm.
a5) Đối với trường hợp đòi bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng..., thì ngày xảy ra hành vi xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng... 1à ngày vi phạm.
a6) Trong một quan hệ pháp luật hoặc trong một giao dịch dân sự, nếu hành vi xâm phạm xảy ra ở nhiều thời điểm khác nhau, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm cuối cùng.
a7) Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a1, a2, a3, a4, a5 và a6 tiểu mục 2.2 này nếu các bên có thoả thuận khác về thời hiệu, thì thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính theo thỏa thuận của các bên.
b) Theo quy định tại Điều 160 của BLTTDS thì các quy định của Bộ luật Dân sự về thời hiệu được áp dụng trong tố tụng dân sự; do đó, việc không áp dụng thời hiệu khởi kiện, thời gian không tính vào thời hiệu khởi kiện, bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện... được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Nếu đọc toàn văn đoạn trích trên thì sẽ thấy cách hiểu của anh TranVinh sau đây:
Trích dẫn:với câu “Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;” phải được hiểu đúng như sau : với tranh chấp phát sinh trước ngày 1/1/2005 , nếu từ ngày 1/1/2005 trở đi mà đương sự trong vụ việc có yêu cầu khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện sẽ được tính là 02 năm ( vì BLTTDS có hiệu lực ngày 1/1/2005 nên nếu có yêu cầu khởi kiện trước 1/1/2005 thì không được áp dụng quy định cùa Điều 159 ). Xin chú ý : thời hiệu khởi kiện (thời hạn) là 02 năm kể từ ngày 1/1/2005 - không đồng nghĩa - với thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính kể từ ngày 1/1/2005 .
là không đúng với tinh thần của quy phạm pháp luật.
Về câu
“Nếu tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005, thì thời hạn hai năm, kể từ ngày 01/01/2005;” , theo tôi, cần phải hiểu rằng thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày 1/1/2005.
Tuy vậy, cần lưu ý rằng quy định này chỉ áp dụng đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện. Thông thường, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện tính từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm. Tuy nhiên, riêng đối với vụ việc dân sự mà trong văn bản quy phạm pháp luật không quy định thời hiệu khởi kiện và nếu
tranh chấp phát sinh trước ngày 01/01/2005 thì bắt đầu từ ngày 1/1/2005 đến ngày 1/1/2007 (hai năm)
, đương sự có quyền khởi kiện, dù tranh chấp phát sinh từ bất cứ ngày nào, năm nào, miễn là trước ngày 1/1/2005.