Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

16 Trang «<10111213141516>
  • Xem thêm     

    18/01/2018, 10:51:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Dựa trên thông tin bạn cung cấp, với hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công ty với giá trị 45 triệu đồng thuộc khoản 1Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
    “1. Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại hoặc tài sản có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với người bị hại, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
    Về phía gia đình đã cóbiện pháp khắc phục hậu quả, người đó chưa có tiền án tiền sự, thành thật khai báo, có giấy bãi nại của công ty thì căn cứ tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 được xét là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Mức án được giảm sẽ do tòa án tuyên.
  • Xem thêm     

    16/01/2018, 12:01:13 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, những người thanh niên đó dùng gạch và mã tấu để rượt đuổi bạn, đe dọa lớn đến tính mạng, sức khỏe của bạn và ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự khu vực. Do đó với tính chất nguy hiểm của hành vi, bạn cần trình báo sự việc đến cơ quan công an tại địa phương đó để được ngăn chặn kịp thời. Do đây là một hành vi vi phạm pháp luật không chỉ gây ảnh hưởng đến bạn mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống mọi người, gây nhiễu loạn an ninh trật tự xã hội. Hành vi cầm mã tấu đuổi theo thì chưa cấu thành tội phạm vì một hành vi vi phạm pháp luật gồm 04 bộ phận cấu thành sau đây:
    - Mặt chủ quan: được hiểu là những yếu tố bên trong của chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Bao gồm lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố ý gián tiếp, lỗi vô ý do quá tự tin. lỗi vô ý do cẩu thả.
    - Mặt khách quan: gồm các dấu hiêu hành vi trái pháp luật, hậu quả, quan hệ nhân quả, địa điểm , thời gian, phương tiện vi phạm
    - Chủ thể của vi phạm pháp luật phải có năng lực hành vi.
    - Khách thể: là quan hệ xã hội bị xâm hại. Tính chất của khách thể là tiêu chí quan trọng để xác định mức độ nguy hiểm của hành vi.
    Hành vi của những người cầm mã tấu kia chưa thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan, do vậy, hành vi này không được coi là vi phạm pháp luật.
    Những người có hành vi này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
    - Về xử phạt vi phạm hành chính:
    Người nào có hành vi xâm hại đến sức khoẻ của người khác mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm d) Khoản 2và điểm b, c khoản 3 Điều 5 Nghị định 167/2013/NĐ-CP như sau:
    “2.Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;
    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:
    b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;
    c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;
    …”
    Sau khi bạn trình báo sự việc lên cơ quan công an, tùy theo hành vi vi phạm thực tế mà bốn người thanh niên đó sẽ bị xử phạt vi phạm.
     
  • Xem thêm     

    15/01/2018, 11:18:19 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Dựa theo thông tin bạn cung cấp, chúng tôi xác định việc 6 cán bộ công an huyện vào khám xét gia đình bạn mà không có lệnh khám xét hoặc sự có mặt của đại diện chính quyền địa phương là sai trình tự, thủ tục của việc khám xét chỗ ở. Theo căn cứ tại khoản 1 Điều 195 BLTTHS 2015 về Khám xét chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện:
    “1. Khi khám xét chỗ ở thì phải có mặt người đó hoặc người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở, có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người chứng kiến; trường hợp người đó, người từ đủ 18 tuổi trở lên cùng chỗ ở cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc vì lý do khác họ không có mặt mà việc khám xét không thể trì hoãn thì việc khám xét vẫn được tiến hành nhưng phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn nơi khám xét và hai người chứng kiến.
    Không được bắt đầu việc khám xét chỗ ở vào ban đêm, trừ trường hợp khẩn cấp nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
    …”
    Như vậy, việc công an khám xét nhà và phát hiện dưới 20 gram ma túy đá cùng với hơn 20 triệu đồng tiền mặt nên chúng tôi chắc chắn rằng công an đã theo dõi chồng bạn từ trước đó và phát hiện chồng bạn đang tàng trữ số lượng ma túy đó nên mới ập vào bắt quả tang, khám xét gia đình bạn.
    Việc định tội sẽ cần dựa trên kết quả điều tra, xác minh của cơ quan công an nên chúng tôi khó có thể định tội rõ ràng dựa trên thông tin bạn cung cấp được.Vậy nên, với số lượng dưới 20 gram ma túy đá và với số tiền hơn 20 triệu đồng được bắt quả tang tại nhà bạn thì có thể chồng bạn đã phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 249 về Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
    “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
    g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20 gam;
    …”
    Nếu chồng bạn thuộc trường hợp tàng trữ trái phép chất ma túy với số lượng dưới 20 gr thì sẽ thuộc khoản 1 điều này. Tuy nhiên, bên cạnh đó cần làm rõ số tiền đó là thu được thông qua việc mua bán trái phép chất ma túy không thì sẽ phải chuyển hóa sang tội khác chứ không còn là tàng trữ.
  • Xem thêm     

    31/12/2017, 05:44:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Điều 74 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:“Vật chứng là những vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng như tiền bạc và những vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.”
    Trong trường hợp của bạn, xe máy là vật mang dấu vết tội phạm, là đối tượng của tội phạm có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội nên cơ quan điều tra sẽ giữ xe để phục vụ việc điều tra.
    Điểm b, Khoản 2 Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định việc xử lý vật chứng đối với trường hợp của bạn như sau: “Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì sung quỹ Nhà nước;”
    Khoản 3 Điều 76 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định:“Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền quyết định trả lại những vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.”
    Từ các quy định trên, cơ quan điều tra xem xét và quyết định thời gian tạm giữ chiếc xe của bạn trong các giai đoạn tố tụng. Nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án hoặc vụ án đã xử lý xong, chiếc xe của bạn sẽ được trả lại cho bạn là chủ sở hữu hợp pháp, có biên bản bàn giao.
    Theo quy định pháp luật hiện hành, việc truy tìm kẻ phạm tội, thu hồi tài sản cho nhân dân là trách nhiệm của lực lượng công an. Người bị mất tài sản không có nghĩa vụ phải trả thù lao cho công an để họ truy tìm tội phạm và thu hồi tài sản cho họ.
  • Xem thêm     

    23/12/2017, 09:00:40 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Vì người làm công của bạn thực hiện hành vi phạm tội theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự, đây không phải tội khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nên nhân viên của bạn vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi trộm cắp tài sản. Tuy nhiên việc người làm công đã khắc phục một phần thiệt hại và khi bạn xin giảm nhẹ hoặc viết đơn bãi nại, Hội đồng xét xử có thể coi đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.
    Như vậy, nhân viên của bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự, hình phạt trong trường hợp này là cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Hình phạt cụ thể sẽ được Hội đồng xét xử quyết định trong Bản án. Ngoài chấp hành hình phạt, nhân viên của bạn phải trả lại số tiền chưa trả hoặc chưa khắc phục hết thiệt hại. Nếu còn thắc mắc gì bạn có thể trực tiếp điện thoại để được tư vấn cụ thể hơn.
     
     
  • Xem thêm     

    23/12/2017, 02:46:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Để xác định hành vi vi phạm trong trường hợp này cần căn cứ đến yếu tố lỗi và mục đích của các bên xảy ra đánh nhau.

    Trong trường hợp phạm tội cố ý gây thương tích dẫn đến chết người, người thực hiện hành vi có lỗi vô ý đối với hậu quả chết người xảy ra. Nghĩa là họ thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra, có thể ngăn ngừa được hoặc họ không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra hậu quả chết người, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó. Đây là trường hợp người phạm tội chỉ cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại đến sức khoẻ của nạn nhân, nhưng chẳng may nạn nhân bị chết, cái chết của nạn nhân là ngoài ý muốn của người phạm tội. Hậu quả chết người xảy ra là vì những thương tích do hành vi của người phạm tội gây ra.

    Với tội giết người, người thực hiện hành vi có lỗi cố ý đối với hậu quả chết người. Nghĩa là họ nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra và mong muốn hậu quả đó xảy ra hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc hậu quả đó xảy ra. Trong trường hợp người thực hiện hành vi có mục đích rõ ràng là tước đoạt tính mạng con người thì họ phạm tội giết người.

    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp điện thoại theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    22/12/2017, 05:18:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Điều 58, Điều 59 của Bộ luật Hình sự 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 có quy định như sau:
    Điều 58. Giảm mức hình phạt đã tuyên
    1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm trực tiếp giám sát, giáo dục, tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
    2. Người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
    Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù từ ba mươi năm trở xuống, mười hai năm đối với tù chung thân.
    3. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên. Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống ba mươi năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là hai mươi năm.
    4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc hai mươi năm nếu là tù chung thân.
    Điều 59. Giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt
    Người bị kết án có lý do đáng được khoan hồng thêm như: đã lập công, đã quá già yếu hoặc mắc bệnh hiểm nghèo thì tòa án có thể xét giảm vào thời gian sớm hơn hoặc với mức cao hơn so với thời gian và mức quy định tại Điều 58 của bộ luật này.
    Như vậy, trường hợp bạn là người bị kết án phạt tù, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án phạt tù, tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt cho chồng bạn.
     
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:05:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin sự việc bạn trình bày, chúng tôi không thể định tội hay xác định lỗi do anh bạn hay từ phía người điều khiển xe mô tô qua thông tin bạn cung cấp được. Do thẩm quyền điều tra, xác định lỗi là do bên cảnh sát giao thông xác định trên thực tế.
    Đối với trường hợp, cơ quan công an xác định lỗi do anh trai bạn gây tai nạn chết người thì có hai trách nhiệm được đặt ra đối với anh bạn đó là trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự.
    _ Đối với trách nhiệm hình sự :
    Theo quy định của Bộ luật hình sự 1999 tại Điều 202 đã ghi nhận về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:
    “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
    …”.
    Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được thực hiện do lỗi vô ý do tự tin hoặc do cẩu thả. Do đó, nếu như công an xác định anh trai bạn có lỗi khi tham gia giao thông thì anh bạn sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này. 
    _ Đối với trách nhiệm dân sự:
    Theo Điều 591, Bộ luật dân sự 2015 khi đề cập đến thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm đã quy định như sau:
    “1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:
    a) Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm theo quy định tại Điều 590 của Bộ luật này;
    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
    d) Thiệt hại khác do luật quy định.
    2. Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp tính mạng của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có tính mạng bị xâm phạm không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.”
    Do đó, khi công an xác định lỗi do anh trai bạn thì anh trai bạn vừa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và vừa chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình người điều khiển chiếc xe mô tô đó.
    - Trường hợp xác định anh trai bạn không có lỗi thì anh trai bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, anh trai bạn vẫn phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người điều khiển xe mô tô, căn cứ tại khoản 3 điều 601 về Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra:
    “3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:
    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;
    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
    Chiếc xe ô tô tải loại 10 tấn mà anh trai bạn điều khiển thuộc nguồn nguy hiểm cao độ, do đó anh trai bạn vẫn phải chịu bồi thường thiệt hại.
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 10:00:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo căn cứ tại Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 quy định về phòng vệ chính đáng như sau:
    “1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.”
    Như vậy, khi xem xét một hành vi có được coi là phòng vệ chính đáng hay không cần hội tụ đủ các yếu tố:
    - Thứ nhất, về phía nạn nhân: là người đang có hành vi xâm phạm đến các lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, của cá nhân người phòng vệ hoặc của người khác (người thứ ba). Hành vi xâm phạm này phải là hành vi có tính chất nguy hiểm đáng kể. Mức độ đáng kể ở đây là tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của quan hệ xã hội bị xâm phạm, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công của nạn nhân (người có hành vi xâm phạm). Trong tình huống của bạn, giữa anh bạn và người kia xảy ra xô xát từ trước, sau khi hai bên dừng lại về nhà thì người kia đã về nhà lấy một cây rựa phát bờchạy theo đòi chém anh bạn, vẫn có ý định tấn công tiếp, đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sức khỏe của bạn và em trai bạn. 
    - Thứ hai, về phía người phòng vệ: Nếu thiệt hại do người có hành vi xâm phạm gây ra có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, có thể là thiệt hại về tài sản, nhân phẩm, danh dự hoặc các lợi ích xã hội khác, thì thiệt hại do người có hành vi phòng vệ gây ra chỉ có thể là thiệt hại tính mạng hoặc sức khoẻ về cho người có hành vi xâm phạm. Người kia gây tổn hại về sức khỏe cho không chỉ bạn mà cả em trai bạn. Và sau đó bạn cũng đã gây tổn hại về sức khỏe lại cho người đó, gây thương tích nặng.
    - Thứ ba, hành vi chống trả là cần thiết. Cần thiết là sự thể hiện tính không thể không chống trả, không thể bỏ qua trước một hành vi xâm phạm đến các lợi của xã hội. Khi đã xác định hành vi chống trả là cần thiết thì thiệt hại gây ra cho người có hành vi xâm phạm dù có lớn hơn thiệt hại mà người có hành vi xâm phạm gây ra cho người phòng vệ vẫn được coi là phòng vệ chính đáng. Mặc dù mức thương tích bạn gây ra cho người kia lớn hơn mức thương tích bạn phải chịu nhưng điều này là cần thiết để bảo vệ sức khỏe đang bị đe dọa của mình.
    Như vậy, bước đầu có thể thấy rằng bạn đang trong tình thế cần và có quyền phòng vệ chính đáng. Tuy nhiên, Điều 106 Bộ luật quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng như sau:
    “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
    2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm.”
    Mức thương tật để phân biệt giữa hành vi phòng vệ chính đáng và vượt quá phòng vệ chính đáng ở đây là 31%. Do vậy cần phải giám định mức độ thương tích trước khi có thể đưa ra được kết luận rằng bạn có vượt quá mức độ phòng vệ chính đáng không. 
     
  • Xem thêm     

    15/12/2017, 09:58:32 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, bạn đã quan hệ với một chị 22 tuổi nhiều lần khi chưa đủ 16 tuổi. Theo quy định tại điểm a khoản 2 điều 115 Bộ luật hình sự về Tội giao cấu với trẻ em:
    “2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
    a) Phạm tội nhiều lần;
    …”
    - Về chủ thể của tội pham:
    Đối với tội giao cấu với trẻ em, pháp luật hiện hành quy định đây là tội có chủ thể đặc biệt. Tức là chỉ người đã thành niên mới là chủ thể của tội này hay chỉ người tù đủ 18 tuổi trở lên mới trở thành chủ thể của tội này. Với trường hợp của bạn, chị đó đã 22 tuổi đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.Chủ thể của tội phạm không phụ thuộc vào giới tính,có thể là nam hoặc nữ.
    - Về khách thể của tội phạm:
    Khách thể của nhóm tội phạm này là xâm phạm đến quan hệ nhân thân (quyền bất khả xâm phạm về tình dục, danh dự, nhân phẩm và sự phát triển toàn diện của trẻ em).
    Mặt khách quan của tội giao cấu với trẻ em:
    Người phạm tội có hành vi giao cấu thuận tình với người trong độ tuổi từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi đây là hành vi giao cấu được thực hiện với sự đồng tình của trẻ em. Qua quy định điều luật nay, nhà làm luật muốn ngăn chăn hành vi của người lớn lợi dụng sự non nớt, nhẹ dạ của trẻ em để đẩy các em vào những quan hệ tình dục quá sớm gây ảnh hưởng xấu về mọi mặt cho các em.
    Mặt chủ quan của tội phạm:  
    Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý: người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em một cách cố ý và tuy đã biết rõ người mà mình giao cấu là trẻ em từ đủ 13 đến dưới 16 tuổi mà vấn giao cấu.
    Bạn có thể tố giác về hành vicủa chị đó, bạn có thể làm đơn tố giác tội phạm đến cơ quan công an cấp quận, huyện để yêu cầu xử lý. Để hỗ trợ cho cơ quan điều tra trong việc điều tra vụ án, bạn cần nói ra sự thật, thống nhất lời khai với cơ quan điều tra. Khi cơ quan điều tra tiến hành điều tra vụ án sẽ đưa ra quyết định trưng cầu giám định. Việc giám định pháp y phải được thông qua cơ quan giám định pháp y được nhà nước công nhận, thường thì phải thông qua cơ quan giám định do Cơ quan điều tra chỉ định.
  • Xem thêm     

    13/12/2017, 04:40:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin chúng tôi nhận được và căn cứ tại Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định về tôi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì:
    “1. Người nào có một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;
    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”
    Như vậy, có thể thấy rằng hành vi của người bạn của bạn có thể có dấu hiệu cấu thành tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, một số thông tin bạn cung cấp vẫn chưa được làm rõ, nên để xác định dấu hiệu phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” sẽ phải căn cứ vào rất nhiều tình tiết khách quan, hành vi phạm tội. Do đó, không phải trường hợp nào cũng có thể xác định để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được.
    Trong trường hợp này bạn vẫn có thể nộp đơn tố cáo đến cơ quan Cảnh sát điều tra để tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người bạn này. Cụ thể thông tin bạn cung cấp thì bạn có thể nộp đơn tố cáo đến cơ quan CSĐT Công an huyện nơi có tài sản bị chiếm đoạt để được giải quyết theo quy định của pháp luật.
     
  • Xem thêm     

    13/12/2017, 04:29:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Họ, hụi, biêu, phường là một hình thức tổ chức góp vốn đã được nhà nước công nhận và có những quy định chung trong nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006. Bên cạnh đó, căn cứ tại khoản 2 điều 2 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP quy định về 
    “Trong đó có nghiêm cấm việc tổ chức họ để cho vay nặng lãi, lừa đảo, lạm dụng tín nhiệm hoặc các hành vi trái pháp luật khác để chiếm đoạt tài sản của người khác.”
    Như vậy, nếu bạn không thực hiện những hành vi này thì bạn không vi phạm pháp luật.
    Về nghĩa vụ trong trường hợp vỡ họ, có thể hiểu là vợ bạn (chủ họ) không còn khả năng để tiếp tục giao phần họ cho các thành viên được lĩnh họ thì theo nghị định tại điều 29 quy định về Trách nhiệm của chủ họ do không giao các phần họ cho thành viên được lĩnh họ:
    “Trong trường hợp chủ họ đã thu các phần họ của các thành viên nhưng không giao cho thành viên được lĩnh họ thì theo yêu cầu của thành viên có quyền lĩnh họ, chủ họ phải giao các phần họ đã thu được cho thành viên đó và bồi thường thiệt hại nếu có. 
    Chủ họ phải trả lãi đối với các phần họ giao chậm theo mức lãi do các bên thoả thuận, nếu không có thoả thuận hoặc không thoả thuận được thì áp dụng mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian giao chậm tại thời điểm giao các phần họ.”
    Như vậy trường hợp này bạn vẫn phải chịu trách nhiệm với phần lãi xuất do chậm trả và có những quy định cụ thể về lãi xuất như sau: Theo căn cứ tại Điều 10 nghị định này quy định:
     “Trong trường hợp họ có lãi thì lãi suất đối với phần họ được thực hiện theo quy định tại Điều 476 của Bộ Luật Dân sự.” 
    Tuy nhiên, vào 01/01/2017  bộ luật dân sự 2015 đã có hiệu lực, tuy nhiên hiện nay chưa có nghị định thay thế, hướng dẫn Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. Nên bạn có thể vẫn áp dụng được mức lãi suất theo Bộ Luật Dân sự 2015.
     
  • Xem thêm     

    13/11/2017, 09:54:33 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn, để xác minh giám định dấu vân tay thì có thể tiến hành giám định tại các  Văn phòng giám định tư pháp, Trung tâm giám định tư pháp. 
    Dấu vân tay phải nhận thấy bằng mắt thường, dấu vân tay chia làm hai loại là vân nhìn thấy (hay vân nổi) và không nhìn thấy (hay vân chìm). Vân nổi có thể dễ dàng tìm thấy được vì chúng nổi lên trên các bề mặt khi máu, bụi đất, mực, sơn, dầu... mà người có dấu vân tay để lại trên bề mặt. Còn vân chìm rất khó nhận thấy bằng mắt thường, chúng được hình thành khi dầu và mồ hôi của người để lại bám lên một bề mặt khác. Trường hợp của hỏi là rất khó để xác định.
     
  • Xem thêm     

    10/11/2017, 01:19:08 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn thì phía công ty kia đã vi phạm nghĩa vụ của mình. Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mà người có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thì sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự với bạn theo quy định trong hợp đồng. Tuy nhiên, nếu sự vi phạm này chưa gây thiệt hại, thì người vi phạm chỉ có trach nhiệm thực hiện đúng nghĩa vụ. Mặt khác, nếu vi phạm nghĩa vụ đã gây ra một thiệt hại cho người bị vi phạm, thì người vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Vì vậy, tùy thuộc vào tính chất, hậu quả của sự vi phạm mà trách nhiệm do vi phạm hợp đồng sẽ là trách nhiệm buộc phải thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ( nếu đã gây thiệt hại), và có thể là trách nhiệm phạt vi phạm nếu các bên có thỏa thuận.
    Để có thể xử lý có hiệu quả các vi phạm hợp đồng khi xảy ra, có thể thực hiện việc thương lượng -  hòa giải, nếu đạt được kết quả sẽ có nhiều lợi ích cho các bên và rút ngắn thời gian thực hiện hợp đồng…. và làm hài lòng các bên tranh chấp.
    Nếu các bên không tự giải quyết được thì nên yêu cầu Tòa án hoặc Trọng tài kinh tế (chỉ áp dụng trong trường hợp tranh chấp hợp đồng kinh doanh thương mại) giải quyết để bảo vệ quyền lợi cho mình trong thời hạn nhất định.
    Nếu thấy có dấu hiệu hình sự thì bạn có quyền đề nghị cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát xem xét khởi tố vụ án hình sự vụ việc này.
    Nếu bạn có thắc mắc hay vấn đề gì để làm sáng tỏ thì hãy liên lạc trực tiếp theo số 19006280 để được tư vấn cụ thể hơn.
     
  • Xem thêm     

    01/11/2017, 09:29:24 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Pháp luật dân sự hiện hành không có quy định bắt buộc hợp đồng vay phải được lập thành văn bản. Do đó, việc bạn cho vay tiền nhưng không lập thành văn bản mà chỉ giao kết bằng lời nói thì hợp đồng này vẫn có giá trị pháp lý, 2 bên vẫn có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật và theo thỏa thuận.

     

    Trường hợp người bạn kia không trả đủ số tiền đã vay tức là đã vi phạm nghĩa vụ của mình, bạn có thể khởi kiện đến tòa án nhân dân quận/huyện nơi người đó đang cư trú để yêu cầu người này thực hiện nghĩa vụ trả nợ. Khi nộp đơn khởi kiện bạn có thể kèm theo giấy chuyển tiền qua ngân hàng để làm căn cứ chứng minh, việc có chứng minh được tồn tại hơp đồng vay tài sản hay không còn phụ thuộc vào lời khai của các bên, lời khai của người làm chứng, bạn cũng có thể thu thập thêm một số chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình.

  • Xem thêm     

    29/10/2017, 10:21:43 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn, tôi tư vấn như sau:
    Điều 105, Bộ luật tố tụng hình sự về khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại có quy định:
    "1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
    2. Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
    Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
    Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức."
    Có thể thấy, trường hợp của bạn rơi vào khoản 1 Điều 104 Tội cố ý gây thương tích(nếu thuong tích từ 11% đến 30%) . Vì vậy, theo Khoản 1, Điều 105, Bộ luật tố tụng hình sự 2003, nếu ngươi bị hại không có yêu cầu thì vụ án của bạn sẽ không bị khởi tố. Khi đó, bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. Vì vậy, nếu như hai bên có thể thỏa thuận được thì đó sẽ là phương án có lợi cho bạn nhất.
    Trong trường hợp phía bên người bị hại đã nộp yêu cầu khởi tố thì trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, bạn vẫn có thể thỏa thuận để người bị hại vẫn có thể rút yêu cầu. Khi đó, vụ án sẽ được đình chỉ. Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức
     
  • Xem thêm     

    29/10/2017, 10:14:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định của bộ luật hình sự, bác của bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm theo Điều 104 Bộ luật Hình sự quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác như sau:
    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
     
    Khi bác bạn đánh bố bạn, trói rồi gây thương tích nặng. Do đó hành vi của bác bạn đã cấu thành tội gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Khi bố bạn tố cáo bác bạn với cơ quan công an sẽ cho bố bạn đi xác định tỷ lệ thương tật. Như vậy, việc xác định tỷ lệ thương tật làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Điều 104 Bộ luật hình sự.
    Trường hợp tỉ lệ thương tật của ông B từ 11% trở lên thì đã đủ yếu tố cấu thành Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo Khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự. Trường hợp tỉ lệ thương tật của ông B chưa đến 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1 trên thì cũng đủ yếu tố để cấu thành tội phạm.
     
  • Xem thêm     

    25/10/2017, 10:13:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định, từ chối luật sư là quyền của bị can, bị cáo nhưng tòa phải hỏi rõ nguyên nhân, đồng thời giải thích kỹ cho bị cáo trước khi ra quyết định. Nếu thấy sự từ chối này là hợp lý thì tòa yêu cầu bạn viết đơn và hướng chấp nhận yêu cầu. Việc chấp nhận yêu cầu này không ảnh hưởng đến vấn đề tố tụng của vụ án vì tại tiểu mục d.2 điểm d Mục 3 Phần II Nghị quyết số 03-2004 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hướng dẫn: “Tại tòa nếu bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ có yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa thì phải ghi vào biên bản phiên tòa”...

  • Xem thêm     

    11/10/2017, 10:11:05 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, người bạn trai bị gia đình bé gái dàn cảnh để hai người vào nhà nghỉ và sau đó khi đang có các cử chỉ âu yếm thì bị công an ập tới bắt người con trai. Trong đó, người con trai đã 20 tuổi, người con gái 16 tuổi.

     

    Như vậy, về dấu hiệu cấu thành tội Dâm ô được quy định tại điều 116, Bộ Luật hình sự năm 1999 :

    Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều trẻ em;

    c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

    Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụcấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

    Theo căn cứ trên, tội dâm ô là hành vi của người đã thành niên dùng mọi thủ đoạn có tính chất loạn dâm dục đối với người dưới 16 tuổi nhằm thỏa mãn dục vọng của mình nhưng không có ý định giao cấu với nạn nhân. Như vậy, người con trai kia không bắt buộc phải quan hệ, mới cấu thành tội dâm ô mà chỉ cần có những hành vi đụng chạm đến phần nhạy cảm của bạn gái cũng đã cấu thành tội Dâm ô, mà nơi thực hiện lại ở nhà nghỉ nên người bạn trai đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.

    Về việc xác định có việc dàn cảnh trong trường hợp này, người bạn trai cần phải có căn cứ (nhân chứng, vật chứng …) chứng minh được có sự sắp xếp từ phía gia đình nhà bạn gái đó. Vì người bạn trai đó đã bị bắt quả tang tại nhà nghỉ với bạn gái đó nên việc chứng minh là rất khó. Nếu có căn cứ chứng minh và còn thời hạn bạn có quyền kháng cáo bản án đó để được tiến hành xét xử phúc thẩm. Nếu hết thời hạn được xét xử phúc thẩm, bạn sẽ đề nghị kháng nghị hay kháng cáo để được tiến hành thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

  • Xem thêm     

    27/09/2017, 04:04:47 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn cung cấp, sau vụ tai nạn giao thông vợ bạn và đứa con trong bụng đều mất, người mợ thì hiện vẫn đang chữa trị tại nhà. Bên gây tại nạn sau hai lần đến thăm đến nay không có đi lại hay gọi điện, bồi thường gì cho gia đình bạn. Đầu tiên cần xác định lỗi trong trường hợp này, để từ đo căn cứ yêu cầu bên có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cũng như chịu trách nhiệm hình sự ( nếu đủ căn cứ cấu thành). Việc xác định lỗi sẽ do cơ quan điều tra xác định có lỗi hay không và tùy thuộc vào các tính tiết khách quan khác nhau chứ không thể theo thông tin bạn cung cấp như trên mà xác định được.

     

    Vậy nên với trường hợp của bạn chúng tôi sẽ tư vấn theo hướng đặt ra các giả thiết như sau:

    Nếu cơ quan điều tra xác định lỗi do chiếc ô tô đó gây ra, thì người điều khiển ô tô sẽ phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.

    - Về vấn đề chịu tráchh nhiệm hình sự :

    Theo quy định về gây tai nạn giao thông có lỗi khi tham gia giao thông đường bộ ( ví dụ như không tuân thủ các nguyên tắc an toàn giao thông ) gây ra hậu quả nghiêm trọng như gây thiệt hại lớn về tài sản, sức khỏe, tính mạng của người bị hại thì có thể chủ thể gây tai nạn sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 như sau :

    " 1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    ………………..

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    …”

    Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 2 Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC về một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt quy định :3. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 204; khoản 3 các điều 202, 203, 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220, Điều 222, Điều 223; khoản 4 các điều 206, 207, 216, 218, 219 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

    b) Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;”

    Việc gây ra hậu quả chết hai người và một người bị thương hiện vẫn đang điều trị (nếu có giám định thương tích đủ điều kiện) thì lỗi của ô tô sẽ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Căn cứ vào quy định trên, nếu người điều khiển ô tô có đầy đủ căn cứ cấu thành tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội danh trên, với mức độ gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, người điều khiển xe ô tô sẽ phải chịu mức hình phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    - Căn cứ để bồi thường thiệt hại:

    Theo quy định tại khoản 1 điều 584 Bộ luật dân sự 2015 quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: “Người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác.”.

    Căn cứ vào quy định trên, bên vi phạm sẽ phải bồi thường cho gia đình bạn các khoản tiền cứu chữa, tiền mai táng, tiền chữa trị cho người đang điều trị, …

    - Trong trường hợp người điều khiển ô tô không có lỗi:

    Nếu cơ quan điều tra kết luận người điều khiểm ô tô không có lỗi, thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điều 202 Bộ Luật Hình sự 1999.

    Tuy nhiên, người điều khiển ô tô vẫn phải bồi thường theo quy định tại khoản 3 điều 601 Bộ luật dân sự 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra

    3. Chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại cả khi không có lỗi, trừ trường hợp sau đây:

    a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại;

    b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”

    Như vậy, dù không có lỗi nhưng người điều khiển ô tô vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.

    Trường hợp, gia đình người đó không chịu bồi thường thiệt hại, bạn có quyền nộp đơn khởi kiện đến tòa án quận, huyện nơi xảy ra vụ tai nạn giao thông để được giải quyết.

16 Trang «<10111213141516>