Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

109 Trang «<31323334353637>»
  • Xem thêm     

    19/12/2019, 05:50:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Điều 254 Bộ luật dân sự 2015 thì:

    “1. Chủ sở hữu có bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có hoặc không đủ lối đi ra đường công cộng, có quyền yêu cầu chủ sở hữu bất động sản vây bọc dành cho mình một lối đi hợp lý trên phần đất của họ.

    Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.
    Chủ sở hữu bất động sản hưởng quyền về lối đi qua phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản chịu hưởng quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
    2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thỏa thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác xác định.

    3. Trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù”.

    Bạn chuyển nhượng thửa đất được tách ra từ một thửa lớn vì vậy bạn là người chuyển nhượng phải có nghĩa vụ đảm bảo cho người mua (nhận chuyển nhượng) có ngõ đi để người mua sử dụng thửa đất đó một cách thuận tiện nhất. Đây là nghĩa vụ bắt buộc cần được thỏa thuận được quy định tại Luật Dân sự, Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thực hiện. Do vậy, họ yêu cầu phải tạo lối đi cho người mua để tránh trường hợp tranh chấp xẩy ra rất phức tạp.

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 05:47:34 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ theo quy định tại Luật đất đai năm 2013 thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là Văn phòng đăng ký đất đai quận, huyện nơi có đất. Nếu sau thời hạn quá lâu kể từ ngày nộp hồ sơ yêu cầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chưa nhận được kết quả và bạn mà chưa có sự phản hồi về kết quả thì có thể cơ quan có thẩm quyền đang làm sai về quy trình giải quyết đối với trường hợp của bạn.

    Đối với trường hợp này, bạn có quyền làm đơn khiếu nại trực tiếp lên người đứng đầu của Văn phòng đăng ký đất đai quận, huyện nơi bạn có đất để yêu cầu giải quyết. Trường hợp bạn khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2015.

  • Xem thêm     

    19/12/2019, 11:38:43 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ vào quy định tại điều 31 Thông tư số 24/ 2014/ TT – BTNMT về hồ sơ địa chính có quy định như sau:

    1. Dữ liệu địa chính cần bảo mật gồm:

    - Thông tin về người sử dụng đất và thông tin thuộc tính thửa đất của các đơn vị quốc phòng, an ninh;

    - Thông tin về cá nhân của người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất mà người đó có yêu cầu bảo mật phù hợp với quy định của pháp luật;

    - Các thông tin khác theo quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước.

    2. Các tài liệu hồ sơ địa chính có chứa thông tin cần bảo mật quy định tại Khoản 1 Điều này được quản lý theo chế độ mật.

    Đồng thời tại điều 11 và 12 Thông tư số 34/2014/TT – BTNMT về xây dựng quản lý, khai thác hệ thống thông tin đất đai có quy định như sau:

    Điều 11. Khai thác dữ liệu thông qua phiếu yêu cầu hoặc văn bản yêu cầu

    1. Tổ chức, cá nhân có nhu cầu khai thác dữ liệu đất đai nộp phiếu yêu cầu hoặc gửi văn bản yêu cầu cho các cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai theo Mẫu số 01/PYC được ban hành kèm theo Thông tư này.

    2. Khi nhận được phiếu yêu cầu, văn bản yêu cầu hợp lệ của tổ chức, cá nhân, cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai thực hiện việc cung cấp dữ liệu cho tổ chức, cá nhân có yêu cầu khai thác dữ liệu. Trường hợp từ chối cung cấp dữ liệu thì phải có văn bản trả lời nêu rõ lý do.

    3. Việc khai thác dữ liệu thông qua phiếu yêu cầu hoặc văn bản yêu cầu được thực hiện theo các quy định của pháp luật.

    “Điều 12. Trình tự, thủ tục cung cấp dữ liệu đất đai

    ......

    2. Cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai tiếp nhận, xử lý và thông báo nghĩa vụ tài chính (trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ tài chính) cho tổ chức, cá nhân. Trường hợp từ chối cung cấp dữ liệu thì phải nêu rõ lý do và trả lời cho tổ chức, cá nhân biết.

    3. Sau khi tổ chức, cá nhân thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, cơ quan cung cấp dữ liệu đất đai thực hiện cung cấp dữ liệu đất đai theo yêu cầu.

    Căn cứ vào điều luật trên, việc bạn muốn được cung cấp thông tin về đất đai từ hồ sơ địa chính thì bạn có thể đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai cấp quận, huyện hoặc đến Văn phòng đăng ký đất đai thuộc Sở tài nguyên môi trường, hoặc ông cũng có thể đến Ủy ban nhân dân cấp xã để xin cung cấp thông tin về đất đai trong trường hợp này, nhưng cần lưu ý Ủy ban nhân dân chỉ có thể cung cấp dịch vụ này dưới hình thức Tra cứu thông tin.

    Việc gia đình bạn xin trích lục hồ sơ 299 thửa đất của gia đình mình nhưng bị Văn phòng đăng ký đất đai Thành phồ Nha Trang từ chối cung cấp với lý do: Đất gia đình bị qui hoạch và đã giao đất cho người khác, do vậy Gia đình bạn không thuộc đối tượng bị trích lục là không đúng quy định.

    Trường hợp chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành phồ Nha Trang từ chối cung cấp thông tin, bạn có thể yêu cầu chi nhánh trả lời bằng văn bản để cung cấp và giải trình cho cơ quan có thẩm quyền hoặc để thực hiện việc khiếu nại lên giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh.

  • Xem thêm     

    16/12/2019, 10:32:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện tặng cho quyền sử dụng đất của người sử dụng đất như sau:

    “a) Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này;
    b) Đất không có tranh chấp;

    c) Quyền sử dụng đất không bị kê biên để bảo đảm thi hành án;

    d) Trong thời hạn sử dụng đất.”

    Theo đó, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp; đất không có tranh chấp, không bị kê biên để đảm bảo thi hành án và trong thời hạn sử dụng đất thì được quyền tặng cho người khác. Tuy nhiên, khi tặng cho thì cần căn cứ theo Điều 143, Điều 144 Luật Đất Đai 2013 quy định về tách thửa đối với Đất ở tại nông thôn và Đất ở tại đô thị. Theo đó để được tách thửa thì mảnh đất phải thỏa mãn điều kiện diện tích tối thiểu để được tách thửa theo quy định của từng địa phương để đảm bảo quy định, quy hoạch chung đối với quỹ đất của từng địa phương.

    Theo đó người có nhu cầu sử dụng đất sẽ nộp hồ sơ tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất đai ở địa phương. Sau khi nhận được hồ sơ của người dân thì văn phòng đăng ký quyến sử dụng đất sẽ tiến hành xem xét hồ sơ xác định xem có đủ điều kiện chuyển nhượng hay không nếu đủ điều kiện thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất sẽ tiến hành đo đạc địa chính để chia tách thửa đất, sau đó lập hồ sơ trình cơ quan có thẩm quyền cấp giấy công văn chấp thuận tách thửa. Sau khi có công văn chấp thuận, người sử dụng đất có thể tiến hành các giao dịch như: chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tặng cho quyền sử dụng đất.

    Như vậy, bà nội bạn đang đứng tên mảnh đất đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên thì có quyền tặng cho bác và bố bạn. khi thực hiện việc tặng cho quyền sử dụng đất thì bà nội, bác bạn và bố bạn phải lập hợp đồng tặng cho bằng văn bản và phải công chứng hoặc chứng thực theo quy định.

    Về nghĩa vụ thuế, lệ phí trước bạ:

    Khoản 4 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 sửa đổi, bổ sung 2012 thì: “Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau” là thu nhập được miễn thuế. Do vậy, khi tiến hành thủ tục sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ bố mẹ sang cho con thì sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân.

    Khoản 10 Điều 4 Nghị định 45/2011/NĐ-CP Quy định các trường hợp không phải nộp lệ phí trước bạ: “Nhà, đất nhận thừa kế hoặc là quà tặng giữa: vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau nay được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất lần đầu”. Do vậy, nếu thuộc trường hợp bố mẹ tặng cho con quyền sử dụng đất lần đầu thì sẽ được miễn lệ phí trước bạ. 

    Tóm lại, khi bà nội tặng cho quyền sử dụng đất cho bố và bác bạn sẽ được miễn thuế thu nhập cá nhân. Và nếu việc tặng cho của bố  mẹ cho bạn lần đầu thì được miễn lệ phí trước bạ khi sang tên quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    16/12/2019, 08:43:02 CH | Trong chuyên mục Doanh nghiệp

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ theo khoản 2 và khoản 3 điều 67 Nghị định 78/2015/NĐ-CP quy định về thành lập hộ kinh doanh và nghĩa vụ đăng ký của hộ kinh doanh như sau:

    “2. Cá nhân, hộ gia đình quy định tại Khoản 1 Điều này chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc. Cá nhân quy định tại Khoản 1 Điều này được quyền góp vốn, mua cổ phần trong doanh nghiệp với tư cách cá nhân.

    3. Cá nhân thành lập và tham gia góp vốn thành lập hộ kinh doanh không được đồng thời là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.”

    Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì mỗi cá nhân chỉ được đăng ký một hộ kinh doanh trong phạm vi toàn quốc nên vợ chồng bạn không thể đăng ký thêm được hộ kinh doanh nào khác và theo quy định của pháp luật chỉ quy định chủ hộ kinh doanh không được đồng thời là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh của công ty hợp danh trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. Còn trường hợp vợ chồng bạn muốn đồng thời làm chủ hộ kinh doanh thì vẫn được phép thành lập góp vốn vào những loại hình khác bao gồm: Công ty TNHH, Công ty cổ phần. Theo đó, vợ chồng bạn có thể thành lập loại hình Công ty ở trên để đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh bất động sản và có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

  • Xem thêm     

    08/12/2019, 09:42:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Nếu việc xác định đất nhà bạn là đất lấn chiếm thì phải có căn cứ thể hiện sự lấn chiếm này. Dựa vào những thông tin đất đai qua các thời kỳ mà UBND ghi nhận, cũng như giấy tờ Nhà nước giao đất cho bạn, cần xác định rõ mảnh đất này là đất do chủ thể nào quản lý và nếu có vấn đề lấn chiếm đất thì lấn chiếm đất của ai? Xác định rõ vấn đề này mới có thể giải quyết vụ việc của bạn.

    Nếu bên đòi đất không đưa ra được căn cứ rõ ràng cho việc đất nhà bạn là đất lấn chiếm, thì bên đòi đất nói mảnh đất này lấn chiếm là không có lý do. Bạn có thể yêu cầu cơ quan chính quyền đưa ra chứng cứ xác định đất nhà bạn không phải do lấn chiếm. Khi có các giấy tờ giao đất của nhà nước, trích lục bản đồ địa chính của Sở TNMT cũng như những biên lai chứng mình nghĩa vụ tài chính trên mảnh đất này, bạn có thể dùng những giấy tờ này để chứng minh bác bỏ yêu cầu đòi đất lấn chiếm.

  • Xem thêm     

    07/12/2019, 03:04:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trong trường hợp này, bạn cần phải làm rõ hai vấn đề như sau: phần đất mà gia đình bạn có lấn chiếm sang đất nhà hàng xóm được thể hiện trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bạn hay không; việc gia đình bạn bị quy chụp là lấn sang đất hàng xóm có đồng ý cho gia đình bạn phần diện tích này bằng văn bản hay không. Nếu phần đất mà đã lấn vẫn hiển thị trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bạn và việc đồng ý cho gia đình hàng xóm xây dựng lên phần đất này chỉ là bằng lời nói hoặc khi họ xây mình không có ý kiến gì thì phần đất này vẫn thuộc về gia đình bạn và bạn được Nhà nước công nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất của mình.

    Do vậy, trong trường hợp của bạn trước hết bạn có thể thỏa thuận với gia đình hàng xóm và yêu cầu họ không khiếu kiện nữa. Nếu hai bên vẫn không thỏa thuận được với nhau thì gia đình hàng xóm có thể viết đơn khiếu nại gửi đến UBND xã/phường yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đứng ra thanh tra kiểm tra và hòa giả về việc này.

    UBND xã/phường có nghĩa vụ hòa giải tranh chấp này. Nếu như hòa giải tại UBND xã/phường không thành thì căn cứ vào Khoản 1, Điều 203 Luật Đất đai 2013 về Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:

    “1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết”;

    Gia đình hàng xóm có thể làm đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận/huyện nơi có đất để yêu cầu tòa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ, còn gia đình bạn phải có nghĩa chứng minh bác bỏ yêu cầu khởi kiện của nhà hàng xóm.

  • Xem thêm     

    07/12/2019, 12:55:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Nếu việc xác định đất nhà bạn là đất lấn chiếm thì phải có căn cứ thể hiện sự lấn chiếm này. Dựa vào những thông tin đất đai qua các thời kỳ mà UBND ghi nhận, cũng như giấy tờ Nhà nước giao đất cho bạn, cần xác định rõ mảnh đất này là đất do chủ thể nào quản lý và nếu có vấn đề lấn chiếm đất thì lấn chiếm đất của ai? Xác định rõ vấn đề này mới có thể giải quyết vụ việc của bạn.

    Nếu bên khởi kiện không đưa ra được căn cứ rõ ràng cho việc đất nhà bạn là đất lấn chiếm, thì bên khởi kiện nói mảnh đất này lấn chiếm mà không có lý do. Bạn có thể yêu cầu cơ quan chính quyền đưa ra chứng cứ xác định đất nhà bạn không phải do lấn chiếm. Khi có các giấy tờ giao đất của nhà nước, trích lục bản đồ địa chính của Sở TNMT cũng như những biên lai chứng mình nghĩa vụ tài chính trên mảnh đất này, bạn có thể dùng những giấy tờ này để chứng minh bác bỏ yêu cầu khởi kiện.

    Trong trường hợp vụ việc bạn nêu còn thời gian kháng cáo 15 ngày theo quy định pháp luật mà có căn cứ chứng minh Tòa án có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật thì bạn có thể nộp đơn kháng cáo để họ thực hiện thủ tục phúc thẩm theo quy định. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án sơ thẩm. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    07/12/2019, 10:44:01 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Căn cứ theo Điều 64, Nghị định 43/2014/NĐ-CP quy định về hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất có quy định:
    “1. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của hộ gia đình phải được người có tên trên Giấy chứng nhận hoặc người được ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự ký tên.
    2. Hợp đồng, văn bản giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của nhóm người sử dụng đất, nhóm chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất phải được tất cả các thành viên trong nhóm ký tên hoặc có văn bản ủy quyền theo quy định của pháp luật về dân sự, trừ trường hợp các chủ sở hữu căn hộ cùng sử dụng chung thửa đất trong nhà chung cư.”

    Như vậy, chỉ người có tên hoặc nhóm người nhóm người sử dụng đất có tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới có toàn quyền thực hiện hợp đồng, giao dịch về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất.

    Trong trường hợp của bạn, việc bạn hùn vốn mua đất (hợp đồng góp vốn) đáp ứng đầy đủ các quy định của pháp luật và thể hiện rõ nội dung cùng góp vốn để nhận (mua) quyền sử dụng đối với mảnh đất do một người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bạn góp vốn nhưng không đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ có nhiều khả năng tranh chấp xảy ra.
    Tuy nhiên, để hạn chế tranh chấp có thể phát sinh và bảo vệ quyền lợi ích của mình thì giải pháp tốt nhất là tất cả những người góp vốn cần liên hệ Văn phòng công chứng nơi có mảnh đất để lập một văn bản thỏa thuận, trong đó xác định rõ việc hai người cùng góp vốn nhận (mua) quyền sử dụng đất, hoặc lập hợp đồng chuyển nhượng một phần mảnh đất đó thuộc quyền sử dụng chung của cả hai người, sau đó nộp văn bản thỏa thuận được công chứng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai UBND cấp huyện, quận (nơi có đất) để làm thủ tục đăng ký biến động trên Giấy chứng nhận.

  • Xem thêm     

    05/12/2019, 11:32:20 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Về phần ổn định đời sống xã hội, yêu cầu hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề theo quy định khi Nhà nước thu hồi đất thì Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp quy định tại các Tiết a, b và c Điểm 1, Khoản 5, Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà được bồi thường bằng tiền; hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất quy định tại các Tiết d, đ và e Điểm 1, Khoản 5, Điều 4 Nghị định số 01/2017/NĐ-CP (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân là cán bộ, công nhân viên của nông, lâm trường quốc doanh, của công ty nông, lâm nghiệp được chuyển đổi từ các nông, lâm trường quốc doanh đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp) khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp thì được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tìm kiếm việc làm theo quy định sau đây: Như vậy, trong trường hợp của bạn thì điều kiện hỗ trợ ổn định đời sống xã hội, yêu cầu hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề phải nằm trong trường hợp được Nhà nước giao đất nông nghiệp khi thực hiện Nghị định số 64/CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của Chính phủ ban hành Bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp sẽ được Nhà nước hỗ trợ theo Nghị định 01/2017.

    Căn cứ Điều 84 Luật đất đai 2013 Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất

    "Điều 84. Hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm cho hộ gia đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp mà không có đất nông nghiệp để bồi thường thì ngoài việc được bồi thường bằng tiền còn được hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm.

    Trường hợp người được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề, tìm kiếm việc làm trong độ tuổi lao động có nhu cầu được đào tạo nghề thì được nhận vào các cơ sở đào tạo nghề; được tư vấn hỗ trợ tìm kiếm việc làm, vay vốn tín dụng ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh.

    Theo khoản 2 điều 3 Thông tư số 33/2017/TT-BTNMT Các căn cứ  để xác định cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp:

    "2.Các căn cứ  để xác định cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp:

    a) Đang sử dụng đất nông nghiệp do được Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất; do nhận chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất nông nghiệp mà chưa được Nhà nước công nhận;

    b) Không thuộc đối tượng được hưởng lương thường xuyên; đối tượng đã nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp xã hội;

    c) Có nguồn thu nhập thường xuyên từ sản xuất nông nghiệp trên diện tích đất đang sử dụng quy định tại Điểm a Khoản này, kể cả trường hợp không có thu nhập thường xuyên vì lý do thiên tai, thảm họa môi trường, hỏa hoạn, dịch bệnh;

    d) Trường hợp giao đất nông nghiệp cho cá nhân theo quy định tại Điều 54 của Luật đất đai, đăng ký nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất trồng lúa của cá nhân thì chỉ căn cứ quy định tại Điểm b Khoản này."

    Như vậy việc xác định cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp cần có điều kiện là đang sử dụng đất nông nghiệp Nhà nước giao, cho thuê, công nhận quyền sử dụng đất; do nhận chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất; đang sử dụng đất nông nghiệp mà chưa được Nhà nước công nhận. Tuy nhiên trường hợp cả vợ và chồng đi tù tại thời điểm thu hồi đất lại không thuộc các trường hợp đã kể trên, do vậy người vợ chấp hành xong án phạt tù và chở về địa phương nơi có đất thu hồi để sinh sống không thể được xác định là cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp.

  • Xem thêm     

    05/12/2019, 11:22:36 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo cách trình bày thông tin của bạn chúng tôi hiểu rằng hợp đồng đặt cọc mua bán nhà của bạn hoàn toàn có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, bên bán đã không thực hiện đúng thỏa thuận về việc giao nhà ở đúng tình trạng kèm theo hồ sơ về nhà ở cho bên mua.

    Tại Khoản 4 Điều 23 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014 cũng đã quy định Quyền của bên mua nhà, công trình xây dựng như sau: “Yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại do việc giao nhà, công trình xây dựng không đúng thời hạn, chất lượng và các cam kết khác trong hợp đồng.”

    Do đó, trường hợp của bạn thuộc “tranh chấp về hợp đồng dân sự” thuộc thầm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự được quy định tại Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 chứ không cấu thành hành vi tội lừa đảo theo Bộ luật hình sự. Bởi vậy, nếu các bên không thể hòa giải, thương lương thì bạn có quyền khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu phải thực hiện theo đúng hợp đồng đã thỏa thuận. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về hợp đồng thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân cấp quận, huyện. Bạn có thể nộp đơn khởi kiện tại tòa án nhân dân cấp huyện nơi chủ đầu tư cư trú hoặc có trụ sở để yêu cầu giải quyết.

    Căn cứ theo khoản 6 điều 114 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 bạn có thể yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm ngăn chặn ông A tẩu tán tài sản. Quyết định của Tòa về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được các cơ quan liên quan thực thi nghiêm chỉnh. Cụ thể tại khoản 1 điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định như sau:

    1. Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.”

    Như vậy, theo quy định trên, để tránh trường hợp chủ đầu tư có thể tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án dân sự, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án, thì pháp luật đã quy định quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ngay trong giai đoạn nộp đơn, Tòa án mới thụ lý đơn khởi kiện hoặc trong giai đoạn xét xử. Quy định này nhằm hạn chế việc đương sự tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án dân sự và đảm bảo công tác thi hành án được hiệu quả. 

    Để có thể kiện hủy hợp đồng và đòi lại số tiền mà bạn đã nộp cho chủ đầu tư, chúng tôi khuyên bạn nên tìm đến công ty hay văn phòng luật để có thể nhờ luật sư tư vấn thêm hoặc đứng ra nhận ủy quyền từ bạn để thực hiện các công việc mang tính pháp lý. Những công việc mà luật sư khi tham gia tố tụng cho bạn như: tìm hiểu kỹ càng sự việc, soạn thảo hồ sơ khởi kiện, tham gia thi hành án…

  • Xem thêm     

    04/12/2019, 11:27:10 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trong trường hợp dùng tài khoản ngân hàng của mình để chuyển tiền nhưng không biết mục đích của họ là dùng số tiền đó để đánh bạc thì coi như hành vi cho chuyển khoản tiền này là một giao dịch dân sự bình thường. Vì người chuyển tiền không biết mục đích của người này nên người chuyển tiền cũng không thuộc trường hợp không tố giác tội phạm, che giấu tội phạm, hoặc người giúp sức do đó người chuyển tiền không bị tội gì

    Tuy nhiên, đối với trường hợp người dùng tài khoản ngân hàng của mình để chuyển tiền đã biết mục đích của người này là dung để đánh bạc nhưng vẫn chuyển tiền mua hộ. Như vậy, rõ ràng ý chí coi như là đã đồng thuận với ý chí của người đánh bạc, tức là dùng số tiền chuyển mua hộ được này để tiếp tục đánh bạc. Do đó trong trường hợp này mặc dù người chuyển tiền hộ không trực tiếp đánh bạc nhưng hành vi cho chuyển tiền này là hành vi giúp sức để người thực hiện hành vi đánh bạc, tạo điều kiện vật chất cho người đánh bạc để tiếp tục thực hiện tội phạm.

    Như vậy, trong trường hợp người khác dùng tài khoản ngân hàng của mình để chuyển tiền mua game nhưng lại biết được người đó dùng số tiền đó để đánh bạc thì xem như là người giúp sức trong trường hợp này. Tóm lại, dùng tài khoản ngân hàng của mình để chuyển tiền để đánh bạc là đồng phạm của tội đánh bạc

  • Xem thêm     

    04/12/2019, 10:03:08 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 Luật cư trú 2006 được sửa đổi bởi Khoản 2 Điều 1 Luật cư trú sửa đổi năm 2013 thì điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương như sau:

    Có chỗ ở hợp pháp, trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ một năm trở lên, trường hợp đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương thì phải có thời gian tạm trú tại thành phố đó từ hai năm trở lên.

    Bạn mua nhà ở Thành phố Hồ Chí Minh và muốn đăng ký thường trú tại một quận ở Thành phố Hồ Chí Minh thì bạn phải đáp ứng điều kiện là đã đăng ký tạm trú(KT3) tại thành phố Hồ Chí Minh từ 02 năm trở lên. Theo như bạn trình bày thì bạn đang sống ở nước ngoài nên để mẹ bạn đứng tên thay khi mua căn hộ chung cư tại Thành phố Hồ Chí Minh sau đó về sẽ sang tên lại. Do đó mẹ bạn không đủ điều kiện được nhập hộ khẩu tại thành phố Hồ Chí Minh vì có hộ khẩu tỉnh ngoài.

    Nếu mẹ bạn đã mua căn nhà đó (có chỗ ở hợp pháp) thì căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Cư trú nêu trên, khi bạn hoặc mẹ bạn muốn đăng ký thường trú vào một quận ở Thành phố Hồ Chí Minh thì bạn hoặc mẹ bạn phải có thời gian tạm trú tại đó từ 2 năm trở lên. Do đó, bạn hoặc mẹ bạn phải đăng ký tạm trú tại nơi căn hộ đó từ 2 năm trở nên sau đó mới tiếp tục thực hiện chuyển khẩu đăng ký thường trú tại Thành phố Hồ Chí Minh.

    Việc bạn hoặc mẹ bạn mua căn hộ chỉ cần qua công chứng, rồi sau đó bạn đó nộp thuế, phí và làm thủ tục sang tên tại Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất là xong. Chuyện này không liên quan gì đến hộ khẩu hay KT3 cả.

    Sau khi nhà sang tên bạn thì bạn làm KT3 cho mình và 01 hoặc 2 năm sau thì bạn cắt khẩu ở tỉnh rồi nhập hộ khẩu Tp.Hồ Chí Minh tại căn nhà của bạn.

  • Xem thêm     

    03/12/2019, 11:25:27 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo Điều 12 Luật Đất đai 2013 quy định về những hành vi bị nghiêm cấm như sau: “1. Lấn, chiếm, hủy hoại đất đai.”

    Như vậy, tự ý lấn sang đất của gia đình bạn đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bạn. Về nguyên tắc, các công trình xây dựng trên phần đất lấn chiếm sẽ phải phá dỡ và trả lại nguyên hiện trạng ban đầu. Tuy nhiên, Toà án đã xác định là nhà bạn bị lấn chiếm đất và diện tích bị lần chiếm nhưng khi xét xử lại đưa ra quyết định là gia đình họ bồi thường bằng tiền quy đổi từ diện tích đất bị lấn chiếm trong khi nhà bạn không đồng ý.

    Căn cứ theo Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, trường hợp không đồng ý với quyết định tại bản án sơ thẩm, người kháng cáo bao gồm đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đã tuyên để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Theo quy định pháp luật, các đương sự khi thấy quyết định của Tòa án không đúng với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật,… thì có quyền làm đơn kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.

    Trong trường hợp mà bạn còn thời gian kháng cáo 15 ngày theo quy định pháp luật mà có căn cứ chứng minh Tòa án có sai làm trong việc áp dụng pháp luật thì bạn có thể nộp đơn kháng cáo để họ thực hiện thủ tục phúc thẩm theo quy định. Đơn kháng cáo phải được gửi cho Tòa án cấp sơ thẩm đã ra bản án sơ thẩm. Trường hợp đơn kháng cáo được gửi cho Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án đó phải chuyển cho Tòa án cấp sơ thẩm để tiến hành các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    26/11/2019, 11:42:16 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Không vấn đề gì bạn nhé!

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 01:17:31 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định thì ngôi nhà và đất mà ông bạn để lại sẽ được chia thừa kế và sẽ được dùng vào việc thờ cúng theo nguyện ý của ông bạn. Nếu trong di chúc của ông bạn có chỉ rõ người quản lý ngôi nhà này thì ngôi nhà này được giao cho người quản lý thực hiện việc thờ cúng. Bạn là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với nhà và đất được sử dụng vào mục đích thờ cúng. Trường hợp này, dù bạn đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì bạn cũng không có quyền bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với tài sản này khi nội dung di chúc thể hiện nhà này dùng vào mục đích thờ cúng. Như vậy, có thể thấy ý nguyện của ông bạn đã được thể hiện rõ trên di chúc, bạn là người được ông chỉ định rõ có trách nhiệm trông coi, quản lý phần di sản này nên ngôi nhà này tuyệt đối không thể được phân chia và bạn chỉ có quyền, nghĩa vụ quản lý ngôi nhà đó mà không có quyền định đoạt như đem đi bán. Trường hợp bạn hỏi đã được giải đáp cụ thể, nếu còn thắc mắc hoặc có các trường hợp vấn đề pháp lý nào khác cần tư vấn, bạn hãy liên lạc với luật sư để được tư vấn cụ thể hơn nhé.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 11:42:13 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Khi tặng cho bạn ( bạn đã kết hôn) thì cần thể hiện rõ trong hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất là bố mẹ muốn tặng riêng cho bạn hay tặng chung cho hai vợ chồng. Nếu tặng cho riêng bạn thì đương nhiên được xác định là tài sản riêng của bạn.

    Như vậy, để thực hiện việc tặng cho quyền sử dụng đất từ bố mẹ sang con, trước tiên bên cho và bên nhận phải đến một tổ chức công chứng trên địa bản tỉnh, thành phố nơi có đất hoặc UBND cấp xã để công chứng/chứng thực hợp đồng tặng cho này. Sau khi có hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã được công chứng/chứng thực thì bạn có thể tiến hành thủ tục đăng ký sang tên bạn tại văn phòng đăng ký đất đai, hồ sơ bao gồm:

    + Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất

    + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

    + Giấy tờ khác như: chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu,…

    Do tính chất đặc biệt của hợp đồng tặng cho tài sản không mang tính đền bù tương đương nên pháp luật dân sự có quy định riêng về thời điểm có hiệu lực như sau:

    + Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.

    + Tặng cho bất động sản phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký, nếu theo quy định của pháp luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu.

    Hợp đồng tặng cho bất động sản có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký; nếu bất động sản không phải đăng ký quvền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm chuyển giao tài sản.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 11:29:26 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Giao dịch mua bán đất gia đình bạn đã thực hiện từ năm 1991. Căn cứ Khoản 2.2 Mục II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP quy định về tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất như sau:

    – Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    – Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

    + Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

    + Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;

    + Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó

    Như vậy, căn cứ theo quy định trên, trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được xác lập từ 1991, nếu đã được UBND cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc chưa được cấp nhưng đã hoàn tất thủ tục xin cấp và được UBND cho phép chuyển nhượng hoặc bạn đã xây nhà ở, công trình kiến trúc lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm quy định về quy hoạch và cũng không có phản đối về việc này, thì hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được công nhận. Người nhận chuyển nhượng là gia đình bạn sẽ là chủ sở hữu hợp pháp của mảnh đất này.

    Trong trường hợp bạn nêu, gia đình bạn nên thương lượng hòa giải với chủ đất cũ vì Thương lượng là phương thức giải quyết đầu tiên trong quá trình giải quyết tranh chấp, thể hiện ở việc các bên trong tranh chấp chủ động gặp gỡ nhau, bàn bạc, thỏa thuận về quyền lợi cũng như nghĩa vụ của mỗi bên.

    Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi các bên có tranh chấp về đất đai thì Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải với nhau. Nếu không tự hòa giải được thì các bên sẽ giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở. Đây là một thủ tục bắt buộc khi giải quyết tranh chấp đất đai. Khi các bên tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì căn cứ theo Điều 203 Luật Đất đai 2013 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai thì gia đình bạn có thể khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền.

  • Xem thêm     

    24/11/2019, 10:58:59 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Tại Phần II, mục 1 Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình có quy định về xác định quyền sử dụng đất là di sản như sau:

    “1.1. Đối với đất do người chết để lại (không phân biệt có tài sản hay không có tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất) mà người đó đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 thì quyền sử dụng đất đó là di sản.

     1.2. Đối với trường hợp đất do người chết để lại mà người đó có một trong các loại giấy quy định tại các Khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, thì kể từ ngày 01/7/2004 quyền sử dụng đất đó cũng là di sản, không phụ thuộc vào thời điểm mở thừa kế.

    1.3. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ được hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 và tiểu mục 1.2 mục 1 này nhưng có di sản là nhà ở, vật kiến trúc khác (như: nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh, giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở, các công trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh doanh như nhà xưởng, kho tàng, hệ thống tưới, tiêu nước, chuồng trại chăn nuôi hay vật kiến trúc khác hoặc trên đất có các tài sản khác như cây lấy gỗ, cây lấy lá, cây ăn quả, cây công nghiệp hay các cây lâu năm khác) gắn liền với quyền sử dụng đất đó mà có yêu cầu chia di sản thừa kế, thì cần phân biệt các trường hợp sau:

    a) Trong trường hợp đương sự có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng chưa kịp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất và quyền sử dụng đất đó.

    b) Trong trường hợp đương sự không có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền xác nhận việc sử dụng đất đó là hợp pháp, nhưng có văn bản của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền cho biết rõ là việc sử dụng đất đó không vi phạm quy hoạch và có thể được xem xét để giao quyền sử dụng đất, thì Toà án giải quyết yêu cầu chia di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Đồng thời phải xác định ranh giới, tạm giao quyền sử dụng đất đó cho đương sự để Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền tiến hành các thủ tục giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đương sự theo quy định của pháp luật về đất đai.

    c) Trong trường hợp Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền có văn bản cho biết rõ việc sử dụng đất đó là không hợp pháp, di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất không được phép tồn tại trên đất đó, thì Toà án chỉ giải quyết tranh chấp về di sản là tài sản trên đất đó.

    1.4. Trường hợp người chết để lại quyền sử dụng đất mà đất đó không có một trong các loại giấy tờ quy định tại tiểu mục 1.1, tiểu mục 1.2 mục 1 này và cũng không có di sản là tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất được hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này, nếu có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân theo quy định của pháp luật về đất đai.”

    Theo thông tin bạn cung cấp, thời điểm bố bạn mất, mảnh đất để lại thừa kế chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà chỉ có giấy mua bán viết tay, do vậy để đăng ký đất đai và chia thừa kế với mảnh đất này bạn phải chứng minh được mảnh đất này là di sản thừa kế do bố bạn để lại. Do bạn không cung cấp rõ thông tin mảnh đất đó hiện tại có nhà ở, công trình kiến trúc khác hoặc cây công nghiệp, cây lấy gỗ… hay không do đó chúng tôi chia thành các trường hợp sau:

    Nếu trên mảnh đất đó đang có nhà ở, công trình kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm…, chuồng trại…, cây ăn quả, cây lấy gỗ… theo quy định đã nêu trên thì tùy từng trường hợp quy định trên thì sẽ xem xét giải quyết phân chia di sản. Với trường hợp này gia đình bạn cần phải liên hệ với Ủy ban nhân dân cấp xã để đề nghị xem xét tính hợp pháp của mảnh đất đồng thời xin xác nhận thông tin về việc ông bà bạn là người đang sử dụng mảnh đất này. Sau khi đã có văn bản xác nhận của Ủy ban cấp xã gia đình bạn có thể liên hệ làm văn bản phân chia sản thừa kế và đăng ký quyền sửu dụng đất

    Nếu trên mảnh đất này không có các công trình đã nêu trên, gia đình bạn có thể làm đơn gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã đề nghị xác nhận phần diện tích đất bố bạn để lại là tài sản do bố bạn sử dụng ổn định, lâu dài, không có tranh chấp. Sau khi có văn bản xác nhận về tính hợp pháp của mảnh đất bố bạn có thể gửi yêu cầu phân chia di sản thừa kế và tiến hành thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất.

    Như vậy, bạn cần xem xét lại xem phần đất do bà bạn để lại thuộc trường hợp nào trong các trường hợp đã nêu trên để yêu cầu giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

  • Xem thêm     

    17/11/2019, 05:27:37 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định tại Điều 651 của Bộ luật Dân sự 2015, hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

    Do mẹ ruột bạn mất không để lại di chúc nên tài sản chung của bố mẹ bạn sẽ được chia đôi phần tài sản của vợ chồng bố mẹ bạn, mỗi người được một phần bằng nhau. Phần tài sản của mẹ bạn sẽ được chia cho các bạn(các con đẻ gồm 2 người) và bố bạn là các hàng thừa kế trong phần di sản của mẹ bạn để lại.

    Cũng căn cứ quy định nói trên, do bố bạn không để lại di chúc nên phần di sản của bố bạn trong tài sản chung sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất gồm: mẹ kế và 3 anh em bạn.

     

109 Trang «<31323334353637>»