Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Dương Văn Mai - LuatSuDuongVanMai

48 Trang «<26272829303132>»
  • Xem thêm     

    17/02/2014, 12:16:00 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Bản chất của hành vi bạn thực hiện trong trường hợp này là môi giới hôn nhân một cách không hợp pháp - vì bạn không đăng ký dịch vụ này.

    Tuy bạn đã nhờ người tìm, nhưng khi sự việc chưa được hoàn tất bạn đã về Trung Quốc và tự mình chấm dứt hành vi nêu trên mà không có sự tác động nào từ yếu tố khách quan hoặc bị cản trở vì vậy đây được coi là trường hợp nửa chừng chấm dứt hành vi phạm tội. Bạn sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này nhưng bạn sẽ có trách nhiệm hợp tác với cơ quan chức năng để làm rõ tình tiết vụ án.

    Chúc bạn mạnh khỏe thành công!

  • Xem thêm     

    15/02/2014, 12:31:20 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Nội dung em hỏi Luật sư tư vấn như sau:

    Căn cứ quan trọng nhất trong trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự về " Tội cố ý gây thương tích" là tỷ lệ thương tích nếu đủ 11% thì có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự. Ở đây em cũng chưa biết tỷ lệ thương tích của người đó là bao nhiêu và nguyên nhân một phần dẫn đến sự việc là do lỗi của người bị hại nên có thể trường hợp này cơ quan chức năng sẽ không khởi tố vụ án hình sự mà giải quyết về mặt hành chính.

    Do còn thiếu một số thông tin nên Luật sư chỉ tư vấn cho em được những nội dung cơ bản. Em có thể tham khảo nội dung điều luật để biết rõ hơn.

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Chúc em mạnh khỏe và thành công!

     

  • Xem thêm     

    13/02/2014, 10:16:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi Luật sư tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự về tội " vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ" thì:

    Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

    Trường hợp này không có thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của con người nhưng cần phải xem xét vấn đề thiệt hại tài sản. Theo quy định tại Nghị quyết số:02/2003/NQ- HDTP của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự khi "Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng". thì cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này và hình phạt được áp dụng theo khoản 1, Điều 202 như nêu ở trên.

    Tuy nhiên Luật sư thấy trong trường hợp này bạn cũng có những tình tiết để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã chủ động khắc phục hậu quả, người bị hại có đơn bãi nại.....

    Bạn có thể vẫn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này nhưng sẽ được áp dụng các quy định về giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như nêu trên.

    Chúc bạn khỏe!

  • Xem thêm     

    12/02/2014, 10:07:02 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với thông tin em cung cấp Luật sư tư vấn như sau:

    Trước hết cần xác định chú của em đã được xóa án tích chưa? - Đã có quyết định về việc xóa án tích của Tòa án có thẩm quyền chưa? Nếu chưa có quyết định này thì khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự chú em có thể bị áp dụng tình tiết tăng nặng và sẽ bị áp dụng khoản 2 điều 195, Bộ luật Hình sự theo đó chú của em có thể bị xử phạt từ sáu năm đến mười ba năm tù.

    Rất tiếc thông tin em cung cấp chưa được đầy đủ nên Luật sư chỉ có thể tư vấn cho em với nội dung cơ bản.

    Chúc em khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    05/02/2014, 04:47:01 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Liên quan nội dung bạn hỏi Luật sư tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Điều 194, Bộ Luật Hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy cụ thể như sau:

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

    h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

    i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;

    m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  hai mươi gam đến dưới một trăm gam;

    n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

    o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm  năm mươi mililít đến dưới  bảy trăm năm mươi mililít;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  ba trăm gam trở lên;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Với khối lượng ma túy bạn nêu, nếu không phải mục đích để mua bán thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Mục 3.6 Thông tư 17 năm 2007 của Bộ Công an. Tuy vậy như bạn nêu bạn và chồng bị khởi tố bị can về tội mua bán ma túy và theo khoản 2 của Điều 194.

    Như vậy ở trường hợp này hai vợ chồng bạn đã có tình tiết tăng nặng nên mới bị khởi tố về tội danh này. Về hình phạt bạn tham khảo nội dung điều luật đã được viện dẫn ở trên.

    Về thời hạn điều tra xét xử được quy định tại Bộ luật Tố Tụng như sau:

    Đây là trường hợp phạm tội nghiêm trọng nên căn cứ Điều 119 thời hạn điều tra là không quá 3 tháng và được phép gia hạn hai lần và không quá 5 tháng, lần 1 ba tháng và lần 2 là 2 tháng.

    Kết thúc giai đoạn điều tra hồ sơ sẽ được chuyển sang VKS cùng cấp thời gian hồ sơ được VKS thụ lý xem xét là hai mươi ngày để quyết định truy tố hoặc không truy tố, trường hợp cần thiết VKS sẽ quyết định gia hạn thêm 10 ngày. Tóm lại thời gian hồ sơ được VKS thụ lý khoảng 30 ngày.

    Sau đó hồ sơ sẽ được chuyển sang Tòa án cùng cấp.

    Tòa án sẽ có thời gian 45 ngày đến 55 ngày Tòa án sẽ quyết định mở phiên tòa hoặc trả hồ sơ điều tra bổ sung.

    Như vậy tổng thời gian từ khởi tố bị can đến phiên tòa sơ thẩm ít nhất cũng là 5 tháng.

    Theo quy định trong thời gian điều tra người thân của bị can, bị cáo có quyền được gặp nhưng thực tế rất ít trường hợp người nhà được gặp.

    Trong thời gian này chỉ những người tham gia tố tụng như cán bộ điều tra, kiểm sát viên, thẩm phán hoặc Luật sư sẽ được gặp bị can, bị cáo theo quy định của Bộ luật Tố Tụng Hình sự.

    Trên đây là nội dung Luật sư có thể tư vấn cho bạn với những thông tin bạn cung cấp.

    Chúc hai vợ chồng bạn mạnh khỏe và được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

     

     

  • Xem thêm     

    16/01/2014, 03:00:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Trước hết Luật sư xin chia sẻ với bạn vì sự việc đáng tiếc trên.

    Liên quan nội dung bạn hỏi Luật sư tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự về Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ:

    Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

    Về nguyên tắc khi tham gia giao thông người tham gia giao thông phải tuân thủ về khoảng cách an toàn giữa phương tiện mình đang điều khiển với phương tiện đang lưu thông phía trước. Trong trường hợp này bạn cũng có phần lỗi vì không đảm bảo khoảng cách an toàn khi tham gia giao thông nên dẫn đến xảy ra sự việc. Tuy nhiên cũng cần làm rõ mức độ lỗi và trách nhiệm của người bị hại, khi xảy ra vụ tai nạn người bị hại đang đi bộ dưới lòng đường.....

    Như viện dẫn ở trên nếu bạn bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì hình phạt tối đã trong trường hợp này có thể là năm năm tù giam.  Tuy nhiên cũng cần căn cứ vào biên bản hiện trường và kết luận điều tra của cơ quan điều tra mới có thể xác định mức độ lỗi của bạn từ đó cơ quan có thẩm quyền sẽ có căn cứ để áp dụng hình phạt phù hợp.

    Rất tiếc vì một số lý do nên thông tin bạn cung cấp chưa thực sự chi tiết nên Luật sư chỉ tư vấn cho bạn ở mức những quy định cơ bản.

     

  • Xem thêm     

    16/01/2014, 02:50:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp Luật sư trả lời như sau:

    Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định tội đánh bạc như sau:

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

    Về xử lý tội đánh bạc được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2010/NQ -HĐTP xác định:

    1. “Đánh bạc trái phép” là hành vi đánh bạc được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào với mục đích được thua bằng tiền hay hiện vật mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp.

    2. Khi xác định trách nhiệm hình sự đối với người đánh bạc không được tính tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để đánh bạc của tất cả các lần đánh bạc, mà phải căn cứ vào từng lần đánh bạc để xem xét; cụ thể như sau:

    a) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc đều dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (dưới 2.000.000 đồng) và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm) thì người đánh bạc không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc;

    b) Trường hợp tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của lần đánh bạc nào bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc đối với lần đánh bạc đó;

    c) Trường hợp đánh bạc từ hai lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết tăng nặng “phạm tội nhiều lần” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự;

    d) Trường hợp đánh bạc từ năm lần trở lên mà tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc của từng lần đánh bạc bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự (từ 2.000.000 đồng trở lên) và lấy tiền, hiện vật do đánh bạc mà có làm nguồn sống chính thì người đánh bạc phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc với tình tiết định khung “có tính chất chuyên nghiệp” quy định tại điểm a khoản 2 Điều 248 của Bộ luật hình sự.

    3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

    a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

    b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

    c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.

    Căn cứ các quy định trên, trường hợp này có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người tham gia đánh bạc và căn cứ Khoản 1, Điều 248 thì hình phạt có thể được áp dụng là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    Trên đây là một số thông tin cơ bản Luật sư có thể trả lời cho trường hợp của bạn.

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát - Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281

  • Xem thêm     

    13/01/2014, 09:53:40 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Việc em mời Luật sư tham gia bào chữa cho chồng em từ giai đoạn nào là quyền quyết định của em với sự thỏa thuận cùng luật sư.

    Theo quy định của Luật Tố tụng Hình sự, Luật Luật sư thì Luật sư được tham gia vụ án hình sự từ giai đoạn điều tra, vậy trường hợp em cần luật sư tham gia từ giai đoạn điều tra em có thể thỏa thuận nội dung này với Luật sư mà em tin tưởng để bào chữa cho chồng em.

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát - Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281.

  • Xem thêm     

    13/01/2014, 09:26:14 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Việc em mời Luật sư tham gia bào chữa cho chồng em là hoàn toàn hợp pháp theo quy định của pháp luật Hình sự.

    Về thù lao của Luật sư khi tham gia bào chữa cho chông em thì tùy thuộc vào việc Luật sư tham gia từ giai đoạn nào hay chỉ tham gia phiên tòa mà thù lao sẽ được xác định.

    Em mời Luật sư nào thì hãy thỏa thuận với Luật sư đó, khi hai bên thống nhất nội dung công việc và thù lao thì Luật sư sẽ tham gia vụ án để bào chữa cho chồng em.

    Chúc em khỏe!

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát - Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281

  • Xem thêm     

    10/01/2014, 03:26:06 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với nội dung em cung cấp Luật sư tư vấn cho em như sau:

    Theo quy định của Bộ luật Hình sự đây là trường hợp mua bán trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 194, rất tiếc chưa có kết luận về số lượng chất ma túy - khối lượng bao nhiêu gram nên em có thể tham khảo quy định dưới đây để biết.

    Điều 194. Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy

    1. Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Phạm tội nhiều lần;

    c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

    d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    e) Sử dụng trẻ em vào việc phạm tội hoặc bán ma tuý cho trẻ em;

    g) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm trăm gam đến dưới một kilôgam;

    h) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ năm gam đến dưới ba mươi gam;

    i) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới hai mươi lăm kilôgam;

    k) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới hai trăm kilôgam;

    l) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới năm mươi kilôgam;

    m) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  hai mươi gam đến dưới một trăm gam;

    n) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ một trăm mililít đến dưới hai trăm năm mươi mililít;

    o) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm g đến điểm n khoản 2 Điều này;

    p) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ một kilôgam đến dưới năm kilôgam;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba mươi gam đến dưới một trăm gam;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ hai mươi lăm kilôgam đến dưới bảy mươi lăm kilôgam;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ hai trăm kilôgam đến dưới sáu trăm kilôgam;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ năm mươi kilôgam đến dưới một trăm năm mươi kilôgam;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  một trăm gam đến dưới ba trăm gam;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai trăm  năm mươi mililít đến dưới  bảy trăm năm mươi mililít;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 3 Điều này.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ năm kilôgam trở lên;

    b) Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam trở lên;

    c) Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ bảy mươi lăm kilôgam trở lên;

    d) Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam trở lên;

    đ) Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam trở lên;

    e) Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ  ba trăm gam trở lên;

    g) Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít trở lên;

    h) Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản 4 Điều này.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Chúc em khỏe và hy vọng chồng em được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát - Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281

  • Xem thêm     

    10/01/2014, 03:03:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Luật sư rất tiêc vì sự việc trên lại xảy đến với chồng của em. Đề chồng em được hưởng sự khoan hồng của pháp luật, được áp dụng hình phạt nhẹ hơn thì chồng em cần phải có ít nhất 2 tình tiết giám nhẹ theo quy định tại Điều 46 Bộ luật Hình sự.

    Khoản 1, Điều 46 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

    a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

    b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;

    c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

    d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;  

    đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái  pháp luật của người bị hại hoặc  người khác gây ra;

    e) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

    g) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

    h)  Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

    i) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;

    k) Phạm tội do lạc hậu;

    l) Người phạm tội là phụ nữ có thai;

    m) Người phạm tội là người già;

    n) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

    o) Người phạm tội tự thú;

    p) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;

    q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;

    r) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

    s) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc  công tác.

    Khi có được ít nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án sẽ căn cứ Điều 47 để quyết định hình phạt nhẹ hơn.

    Điều 47. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật

    Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật này, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật; trong trường hợp điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật, thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

    Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư cho câu trường hợp của em.

    Chúc em khỏe và thành công!

     

  • Xem thêm     

    05/01/2014, 12:47:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chúc bạn khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    04/01/2014, 11:17:16 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

     Với nội dung câu hỏi của bạn, Luật sư xin được tư vấn như sau:

     Thứ nhất, Điều 326 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về việc cầm cố tài sản như sau: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”. Hành vi của anh A trộm cắp xe của người khác đem đi cầm đồ là hành vi trái pháp luật. Việc công an tạm giữ chiếc xe và trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định của pháp luật.

    Điều 132 BLDS quy định: “Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó”.

    Thỏa thuận cầm cố giữa bạn và anh A thông qua Giấy vay tài sản là trái pháp luật. Đây được coi là giao dịch dân sự do bị lừa dối. Khi mang đi cầm đồ chiếc xe máy ăn trộm, anh A đã đưa ra những thông tin giả như cam đoan chiếc xe đó của vợ anh A, anh A sẽ chịu trách nhiệm để làm cho bạn tin tưởng tiến hành ký Giấy vay tiền. Đây thực chất là quan hệ cho vay có tài sản bảo đảm. Do vậy, Giấy vay tiền giữa bạn và anh A sẽ bị vô hiệu do anh A đã lừa dối.

    Điều 137 Bộ Luật Dân sự 2005 quy định như sau:

    Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu 

    1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.

    2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường”.

    Việc thỏa thuận cầm cố giữa bạn và anh A là vô hiệu do lỗi của cả hai bên. Lỗi của bạn là đã không kiểm tra kĩ thông tin của người cầm cố, tin tưởng lời nói của anh A. Nên trong trường hợp này, bạn và anh A phải cùng liên đới chịu trách nhiệm về thiệt hại. Khoản nợ này đương nhiên sẽ chuyển thành khoản vay không đảm bảo. Bạn và anh A sẽ phải thỏa thuận về việc trả nợ, nếu bạn và anh A không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự trên vô hiệu.

    Thứ hai, hành vi bạn cầm cố vào tài sản không có giấy đăng kí xe thì tôi sẽ bị phạt như thế nào, Luật sư xin được trả lời như sau:

    Khoản 2 Điều 14 Nghị định 73/2010/NĐ-CP ngày 12 tháng 07 năm 2010 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội quy định:

    Điều 14. Hành vi vi phạm các quy định về quản lý một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh, trật tự

    2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Kinh doanh không đúng nội dung, địa điểm quy định trong giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự;

    b) Nhận cầm cố tài sản mà theo quy định tài sản đó phải có giấy tờ sở hữu hoặc đăng ký nhưng không có các giấy tờ đó;

    c) Cầm cố, thế chấp tài sản mà không có hợp đồng theo quy định;

    d) Cho mượn, mượn hoặc chuyển nhượng giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự;

    đ) Không chấp hành hoặc cản trở việc kiểm tra an ninh, trật tự của cơ quan Công an có thẩm quyền.

    Hành vi của bạn khi nhận cầm cố chiếc xe của A mà không có giấy tờ đăng ký xe là vi phạm điểm b khoản 2 Điều 12 đối với Hành vi vi phạm các quy định về quản lý một số ngành, nghề kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự theo quy định tài sản đó phải có giấy tờ sở hữu hoặc đăng ký. Do vậy, trong trường hợp này bạn sẽ bị xử phạt hành chính với mức phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.

    Trường hợp cơ quan chức năng chứng minh được bạn biết nguồn gốc của tài sản như tài sản do phạm tội mà có, bạn vẫn thực hiện giao dịch thì bạn còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội " tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" được quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự.

    Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư cho trường hợp của bạn.

    Chúc bạn khỏe và thành công!

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát - Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281

     

  • Xem thêm     

    02/01/2014, 03:56:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với thông tin bạn nêu Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Trước hết bạn cần trình báo sự việc tới cơ quan công an để công an lập biên bản về sự việc nếu có đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự cơ quan chức năng sẽ giải quyết theo quy định.

    Bạn cũng cần đi khám để kiểm tra mức độ thương tật làm cơ sở để giải quyết sự việc. Chi phí cho việc khám chữa phải thể hiện bằng hóa đơn, chứng từ kế toán để sử dụng là căn cứ yêu cầu bồi thường thiệt hại.

    Chúc bạn khỏe và sớm giải quyết được sự việc!

  • Xem thêm     

    31/12/2013, 04:13:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với thông tin em nêu Luật sư tư vấn như sau:

    Hành vi đánh bạc với giá trị từ 2.000.000 đồng đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi và bổ sung năm 2009.

    Việc sử dụng mạng internet chỉ là một hình thức thực hiện việc đánh bạc nên đủ yếu tố cấu thành tội đánh bạc sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đánh bạc.

    Theo quy định của điều luật trên hình phạt được áp dụng như sau:

    Điều 248. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng”.

    Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư cho em.

    Chúc em mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    25/12/2013, 03:09:45 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với thông tin bạn cung cấp Luật sư tư vấn như sau:

    Trước hết hiện tại sự việc chưa có kết luận điều tra của cơ quan chức năng để khẳng định lỗi để xảy ra vụ việc là do bên nào bên lái xe của quận đội hay người thiệt mạng nên những trách nhiệm hình sự theo Điều 202 Bộ luật Hình sự và trách nhiệm dân sự - Bồi thường thiệt hại do tính mạng bị xâm hại  theo quy định tại Điều 610 Bộ luật Dân sự chưa thể quy kết cho bên nào.

    Vì vậy hai bên cần thương lượng, thỏa thuận với nhau.

    Trường hợp kết luận của cơ quan chức năng khẳng định người điều khiển oto đó có vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ dẫn đến xảy ra tai nạn, khi đó người này phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 202 và phải bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại. Khi hai bên không đạt được sự thỏa thuận thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

    Điều 202 Bộ luật Hình sự quy định như sau:

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến năm năm.

     2. Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Điều 610 Bộ luật Dân sự quy định về Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Chúc bạn khỏe và thành công!

     

  • Xem thêm     

    25/12/2013, 02:56:39 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn

    Với thông tin mà bạn cung cấp trên, Luật sư xin tư vấn cho bạn như sau:

     Đối với trường hợp của bạn thì do tránh xe khác vượt trước mà bạn phải lách sang phải và không may quệt vào lưng một người đi đương thì bạn cũng có một phần lỗi. Khi điều khiển phương tiện giao thông trên đường thì bạn phải chú ý quan sát tất cả các phương tiện, chướng ngại vật khác xung quanh.

    Còn về phía người đi bộ, do không đi trên vỉa hè nên khi xảy ra việc va trạm người này cũng có một phần lỗi. Theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Luật giao thông đường bộ năm 2008 có quy định: Người đi bộ phải đi trên hè phố, lề đường; trường hợp đường không có hè phố, lề đường thì người đi bộ phải đi sát mép đường”. Như vậy căn cứ vào quy định này thì người đi bộ đã vi phạm luật giao thông đường bộ là đi dưới lòng đường.

    Theo Luật sư, bạn với người đó nên tự thương lượng với nhau. Cả hai đã không có thiệt hại gì về tài sản và sức khỏe. Hơn nữa, bạn đã chủ động đưa người đó vào bệnh viện và đã tự trả tiền chụp x quang... như vậy bạn cũng đã thể hiện thiện chí và chủ động khắc phục hậu quả nên Luật sư thấy trường hợp này sự việc hai bên sẽ đạt được sự thỏa thuận để giải quyết.

    Chúc bạn khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    25/12/2013, 02:43:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn

    Với nội dung câu hỏi của bạn, Luật sư xin tư vấn như sau:

    Điều 14 Thông tư 65/2012/TT-BCA ngày 30/10/2012 Quy định nhiệm vụ, quyền hạn, hình thức, nội dung tuần tra, kiểm soát của cảnh sát giao thông đường bộ có quy định:

    Điều 14. Các trường hợp được dừng phương tiện

    1. Cán bộ thực hiện nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát được dừng phương tiện để kiểm soát trong các trường hợp sau:

    a) Trực tiếp phát hiện hoặc thông qua phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ phát hiện, ghi nhận được các hành vi vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ;

    b) Thực hiện kế hoạch, mệnh lệnh tổng kiểm soát của Cục trưởng Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt hoặc Giám đốc Công an cấp tỉnh trở lên;

    c) Thực hiện kế hoạch, phương án công tác của Trưởng phòng Hướng dẫn và Tổ chức tuần tra, kiểm soát giao thông thuộc Cục Cảnh sát giao thông đường bộ - đường sắt, Trưởng phòng Cảnh sát giao thông hoặc Trưởng Công an cấp huyện trở lên về việc kiểm soát, xử lý vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ theo chuyên đề;

    d) Có văn bản của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra từ cấp huyện trở lên; văn bản đề nghị của cơ quan chức năng liên quan về dừng phương tiện để kiểm soát phục vụ công tác bảo đảm an ninh, trật tự;

    đ) Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân về hành vi vi phạm pháp luật của người và phương tiện tham gia giao thông.

    2. Việc dừng phương tiện phải bảo đảm các yêu cầu sau:

    a) An toàn, đúng quy định của pháp luật;

    b) Không làm cản trở đến hoạt động giao thông;

    c) Khi đã dừng phương tiện phải thực hiện việc kiểm soát, nếu phát hiện vi phạm phải xử lý vi phạm theo đúng quy định của pháp luật.”

    Như vậy, căn cứ theo quy định trên thì mặc dù bạn không vi phạm lỗi gì nhưng CSGT có quyền dừng xe của bạn để kiểm tra hành chính khi đang thực hiện các kế hoạch, phương án, chuyên đề của cấp trên giao phó được quy định tại các điểm b, c, d Điều 14 của Thông tư trên. Trong quá trình dừng phương tiện phải đảm bảo được 3 yêu cầu trên.

    Và theo khoản 1 Điều 17 Thông tư này có quy định: “Sau khi kiểm soát xong cán bộ tuần tra, kiểm soát thông báo các hành vi vi phạm, hình thức và biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật cho người điều khiển phương tiện và những người trên phương tiện biết để chấp hành việc giám sát. Đối với những phương tiện chở người từ 24 chỗ ngồi trở lên, trực tiếp lên khoang chở khách để thông báo. Trường hợp không phát hiện vi phạm cũng phải thông báo và nói lời: “Cảm ơn ông (bà, anh, chị,...) đã giúp đỡ lực lượng Cảnh sát làm nhiệm vụ”. 

    Trong trường hơp này dù bạn không vi phạm lỗi nào nhưng bạn vẫn phải dừng xe khi CSGT ra hiệu lệnh dừng xe để thực hiện việc kiểm tra hành chính.

    Chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    25/12/2013, 09:12:01 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Theo quy định của Bộ luật Tố tụng thì không có sự phân biệt Cơ quan nào ban hành quyết định khởi tố với bị can, bị cáo nên quyền của em là được nhận các văn bản tố tụng cũng như các quyết định tống đạt.

    Về việc em được yêu cầu đưa tiền để được tại ngoại, Luật sư thấy việc đó không cần thiết vì nếu em bị tạm giam thì em đã bị tạm giam rồi, hơn nữa việc được tại ngoại không đồng nghĩa với việc không có tội. Với trường hợp này của em nếu phải tạm giam thì Cơ quan điều tra đã không có lệnh cấm em đi khỏi nơi cư trú.

    Về việc ngân hàng trước tiên em cần khiếu nại đến ngân hàng, sau đó có thể khởi kiện ngân hàng tại nơi họ có trụ sở hoạt động.

    Cần giúp đỡ hơn nữa em có thể liên hệ với Luật sư để được giúp đỡ.

    Chúc em khỏe!

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát

    Tổng đài tư vấn pháp luật: 19006281

  • Xem thêm     

    21/12/2013, 09:26:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Luật sư rất tiếc vì sự việc trên đã xảy ra với bạn!

    Trường hợp này rõ ràng bạn đã không thực hiện đúng các quy tắc khi tham gia giao thông - bạn đã đi ngược chiều nên đã gây ra vụ tai nạn. Mặc dù bạn đã chủ động khắc phục hậu quả nhưng bạn vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thanh niên đó bị tổn hại "cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên" được quy định tại điểm b, mục 4.1 Nghị quyết số: 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/04/2003 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối Cao hướng dẫn áp dụng một số điều của Bộ luật Hình sự.

    Theo hướng dẫn trên nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự bạn sẽ bị áp dụng Khoản 1, Điều 202 Bộ luật Hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ. Khoản 1, Điều 202 quy định như sau:

    Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    Cũng theo thông tin bạn cung cấp khi xảy ra sự việc hai bên đã tự giải quyết, chưa có biên bản hiện trường của cơ quan công an, cũng như chưa có giám định pháp y để xác định tỷ lệ thương tật. Vậy nên cần phải đợi kết quả giám định mới có căn cứ xác định tỷ lệ thương tật của người bị hại là bao nhiêu % khi đó mới có cơ sở để truy cứu hoặc không truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Về nguyên tắc người bị hại có quyền tố cáo bạn ra trước cơ quan công an để điều tra làm rõ sự việc. Trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì việc bạn chủ động, tích cực trong việc khắc phục hậu quả đưa người bị hại đi cấp cứu, chiếu chụp.... và thanh toán toàn bộ chi phí cho việc chữa trị tại bệnh viện đây sẽ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bạn trong trường hợp bị truy cứu.

    Trường hợp này Luật sư cũng khuyên bạn nên thương lượng, thỏa thuận với người bị hại để giải quyết sự việc theo hướng dân sự sẽ là tốt nhất cho bạn.

    Chúc bạn khỏe và thành công!

    Luật sư Dương Văn Mai - Công ty Luật Thuận Phát

    Tổng đài tư vấn pháp luật 19006281

48 Trang «<26272829303132>»