Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Dương Văn Mai - LuatSuDuongVanMai

48 Trang «<24252627282930>»
  • Xem thêm     

    12/05/2014, 10:56:23 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn nêu Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Trường hợp này chưa phải đối tượng điều chỉnh của pháp luật hình sự, đây là vấn đề bồi thường thiệt hại được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005.

    Trường hợp người lái xe không chịu bồi thường cho bạn bạn có thể khởi kiện vụ án dân sự để buộc người đó phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn.

    Chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

     

  • Xem thêm     

    12/05/2014, 10:48:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn Hungitk46!

    Thực sự với các thông tin bạn nêu bổ sung thêm như thế này cũng chưa thực sự có nhiều thông tin, để Luật sư tư vấn cho bạn chi tiết bạn có thể cung cấp các tài liệu về việc hợp tác của bạn cũng như giấy phép kinh doanh của cơ sở do bạn hợp tác xây dựng hay không?

    Về nguyên tắc việc hợp tác của các bạn là thỏa thuận trên cơ sở đồng thuận và xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng của từng người. Nên việc bạn có tham gia hay không tham gia nữa phải là ý chí của bạn, do bạn quyết định, những người còn lại không có quyền tách bạn ra được trừ trường hợp các bạn đã có thỏa thuận về các trường hợp không được tiếp tục hợp tác kinh doanh.

    Trường hợp cơ sở của bạn là doanh nghiệp khi không thương lượng giải quyết được bạn có thể khởi kiện vụ án tranh chấp doanh nghiệp tại Tòa án có thẩm quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

     

  • Xem thêm     

    09/05/2014, 11:44:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi có liên quan tới pháp luật hình sự và có khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự và một vụ án hình sự. Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Trước hết về thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định tại Bộ luật Hình sự

    Điều 23. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

    1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật này quy định mà khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    2. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

    a) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

    b) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

    c) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

    d)  Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

    3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này người phạm tội lại phạm tội mới mà Bộ luật quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên một năm tù, thì thời gian đã qua không được tính và thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày phạm tội mới.

    Nếu trong thời hạn nói trên, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có lệnh truy nã, thì thời gian trốn tránh không được tính và thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra tự thú hoặc bị bắt giữ.

    Trường hợp có căn cứ hoặc tài liệu chứng minh sự việc em gái bạn hoàn toàn có thể tố cáo và người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh phù hợp với hành vi đã thực hiện.

    Trong trường hợp vụ việc được xem xét giải quyết em bạn sẽ phải tham gia vụ án với tư cách người bị hại.

    Đó là các nội dung Luật sư có thể tư vấn cho bạn, chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

     

  • Xem thêm     

    09/05/2014, 10:48:48 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào stephano!

    Trước hết Luật sư xin chia sẻ với bạn về sự việc đáng tiếc này đồng thời chúc bạn mau bình phục.

    Liên quan nội dung bạn hỏi Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Trước hết trong vụ việc này có cơ sở để khởi tố vụ án hình sự trường hợp vụ việc được khởi tố thì bạn sẽ tham gia vụ án với tư cách người bị hại

    Bạn có quyền yêu cầu người gây thiệt hại cho mình phải bồi thường toàn bộ chi phí liên quan tới việc điều trị, thu nhập của bạn bị mất do phải điều trị......

    Để thực hiện việc đó bạn cần phải có đơn tố cáo và đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với người đã có những hành vi nêu trên. Bạn cũng có quyền yêu cầu cơ quan công an tiến hành trưng cầu giám định để có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đúng pháp luật.

    Nếu vụ việc được khởi tố và tỷ lệ thương tích của bạn phù hơp quy định tại Điều 104 Bộ Luật Hình sự về tội cố ý gây thương tích thì người có hành vi trên sẽ phải đối mặt với một trong các khung hình phạt được quy định cụ thể như sau:

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Đó là những thông tin cơ bản Luật sư có thể tư vấn cho bạn trên cơ sở dữ liệu bạn cung cấp.

    Chúc bạn sớm bình phục và học tập tốt!

     

  • Xem thêm     

    06/05/2014, 10:17:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào dangvanmanh!

    Nội dung em nêu Luật sư tư vấn cho em như sau:

    Về tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 Bộ luật Hình sự

    Điều 133. Tội cướp tài sản

    1. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến  mười lăm năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Rất tiếc trường hợp này em không nêu rõ tính chất, giá trị tài sản cũng như vai trò cụ thể của anh em. Anh em là người tham gia bàn bạc hay anh em là người "bán" tài sản do người khác phạm tội mà có?

    Trường hợp anh em tham gia bàn bạc thì nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự anh em sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tư cách người đồng phạm.

    Trường hợp anh em biết tài sản đó là do người khác phạm tội mà có nhưng vẫn tiêu thụ.... thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội " Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" được quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự.

    Điều 250. Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có

    1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm .

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến  bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b)  Có tính chất chuyên nghiệp ;

    c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;

    d)  Thu lợi bất chính lớn;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  năm năm đến mười năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;

    b) Thu lợi bất chính rất lớn.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;

    b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    Khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự anh trai em có nguy cơ đối mặt với một trong hai tội danh nêu trên nó phụ thuộc vào vai trò của anh trai em khi tham gia sự việc. Đây là vụ án hình sự.

    Chúc em mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    04/05/2014, 02:36:38 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Nội dung em nêu Luật sư tư vấn như sau:

    Đây được coi là tranh chấp giữa nội bộ các thành viên cùng hợp tác kinh doanh, Luật sư chưa rõ việc hợp tác này có thành lập cơ sở kinh doanh hoặc doanh nghiệp cụ thể như thế nào?

    Trường hợp việc hợp tác kinh doanh được thống nhất và thành lập cơ sở kinh doanh hoặc doanh nghiệp có giấy phép hoạt động ...thì đó là tranh chấp giữa các thành viên sáng lập... đây là quan hệ dân sự vì vậy phải giải quyết theo thủ tục được quy định tại Bộ luật Tố tụng Dân sự theo đó thẩm quyền sẽ thuộc Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh.

    Đó là nội dung cơ bản Luật sư có thể tư vấn cho em trên cơ sở thông tin bạn cũng cấp.

  • Xem thêm     

    04/05/2014, 02:28:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Đây là trường hợp theo quy định của pháp luật có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự. Vụ việc có thể được khởi tố vụ án hình sự.

    Điều 248. Tội đánh bạc

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

    Theo thông tin bạn cung cấp với giá trị tài sản là 5,7 triệu thì hình phạt sẽ được áp dụng theo khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự.

     

  • Xem thêm     

    04/05/2014, 02:08:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi Luật sư trả lời như sau:

    Trường hợp này vẫn có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản, việc chưa trộm cắp được là do yếu tố khách quan - bị người có tài sản phát hiện sau đó bỏ chạy và bị đuổi theo bắt lại.

    Theo quy định tại Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009 (sau đây gọi chung là Bộ luật Hình sự) quy định về Tội trộm cắp tài sản như sau:

    1.Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

    đ) Hành hung để tẩu thoát;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4.Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a)Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b)Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5.Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.”

    Trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì người thực hiện hành vi như bạn cung cấp phải đối mặt với việc bị xét xử về tội trộm cắp tài sản.

    Trên đây là nội dung tư vấn của Luật sư cho trường hợp bạn nêu, chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    30/04/2014, 10:12:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp căn cứ quy định của pháp luật trường hợp này bạn có cơ sở để lấy lại tiền từ người đã bán chiếc xe đó cho bạn.

    Để giải quyết việc này bạn nên nói chuyện trao đổi với người bán để hai bên thống nhất giải quyết sự việc một cách nhẹ nhàng không phải đưa ra cơ quan có thẩm quyền.

  • Xem thêm     

    29/04/2014, 10:01:49 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Trường hợp này là quan hệ pháp luật dân sự em nhé, nên nếu họ có đưa vụ việc ra giải quyết tại tòa thì cũng làm theo thủ tục của phiên tòa dân sự.

  • Xem thêm     

    26/04/2014, 11:31:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Nội dung bạn hỏi liên quan tới lĩnh vực pháp luật hình sự và quá trình tố tụng hình sự, Luật sư tư vấn như sau:

    Trước hết theo quy định tại Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì:

    "1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tính chất chuyên nghiệp;

    b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;

    c) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng".

    Về số tiền được tính để dùng vào việc đánh bạc được hướng dẫn áp dụng cụ thể tại Khoản 3, Điều 1, Nghị quyết số 01/2010/NQ -HDTP Tòa án nhân dân tối cao theo đó:

    3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

    a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

    b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

    c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.

    Với thông tin bạn cung cấp thì trường hợp bị truy cứu trách nhiệm hình sự anh rể bạn có thể "bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm". theo quy định tại khoản 1, Điều 248.

    Về nguyên tắc trong quá trình điều tra, người nhà của người bị bắt có quyền được gặp nhưng thường không được cơ quan chức năng chấp thuận.

     

     

  • Xem thêm     

    23/04/2014, 12:05:34 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Luật sư rất tiếc vì sự việc xảy ra với gia đình nhà em. Về nội dung em hỏi Luật sư tư vấn cho em như sau: Dù em không nêu tỷ lệ thương tích của người bác đó nếu đủ 11% sức khỏe là có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Nhưng theo Luật sư em cũng nên đề nghị người Bác đó viết giấy cam kết không sử dụng sự việc đó để tố cáo hay đe dọa em nữa tránh những sự lật lọng....của người bác đó.

    Chúc em mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    12/04/2014, 02:36:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn! Kimtranvan!

    Hành vi sử dụng hồ sơ giả mạo nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc gây hậu quả nghiêm trọng sẽ là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

    Trường hợp một người lao động sử dụng hồ sơ giả có thể là để được tuyển dụng vào làm việc tại doanh nghiệp thì doanh nghiệp có thể: chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động này, buộc bồi thường nếu có thiệt hại xảy ra, hoặc mức độ nghiêm trọng hơn doanh nghiệp có thể tố cáo sự việc tới cơ quan công an để giải quyết theo quy định chung.

  • Xem thêm     

    12/04/2014, 01:04:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Nội dung em hỏi Luật sư tư vấn như sau:

    Về nguyên tắc khi tài sản đó là tài sản do phạm tội mà có thì nếu là người mua em sẽ phải trả lại tài sản đó và yêu cầu người đã bán tài sản cho em phải trả lại số tiền.

    Trường hợp này của em  IP5 đã bị công an tạm thu giữ và lại còn yêu cầu em nộp tiền với giá trị của IP4 như vậy là không phù hợp.

    Có thể còn nhiều thông tin khác liên quan tới việc này em chưa rõ hoặc chưa cung cấp hết nên Luật sư chưa thể tư vấn chi tiết hơn được.

  • Xem thêm     

    12/04/2014, 12:56:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Bạn viết nội dung câu hỏi cho đầy đủ để Luật sư tư vấn giúp nhé.

  • Xem thêm     

    12/04/2014, 12:10:11 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với nội dung thông tin em cung cấp Luật sư tư vấn như sau:

    Đây là tài sản phải đăng ký, nên khi thực hiện việc mua bán những loại tài sản này pháp luật buộc người tham gia phải biết tính chất của nó. Nếu người bán là chủ sở hữu tài sản họ phải xuất trình được giấy tờ chứng minh mình là chủ sở hữu. Trường hợp không phải chủ sở hữu thực hiện việc mua bán thì người đó phải xuât trình được Giấy ủy quyền hoặc Hợp đồng ủy quyền... rất tiếc vì em đã không kiểm tra những thông tin này nên mới xảy ra sự việc.

    Trường hợp này cơ quan chức năng cung cần xác minh tại thời điểm mua bán em có biết chính xác tình trạng của chiếc xe đó không?

    Trường hợp em biết chính xác xe đó là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn mua thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội " chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". theo quy định tại Điều 250 Bộ luật Hình sự. "Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm."

    Tuy nhiên nếu bị kết án đối với trường hợp này thì em cũng được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và chính sách của pháp luật với người chưa thành niên phạm tội.

    Trường hợp không đủ yếu tố xử lý trách nhiệm hình sự thì em có quyền trả lại xe cho người đã bán và nhận lại tiền vì hợp đồng của em bị vô hiệu - không tuân thủ hình thức hợp đồng theo quy định chung.

    Chúc em sớm giải quyết được sự việc!

     

  • Xem thêm     

    10/04/2014, 12:52:27 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Luật sư tư vấn cho bạn như sau:

    Cơ quan chức năng làm vậy là không phù hợp như nội dung tư vấn trước.

    Thứ hai việc bạn mua xe đó nhưng chỉ là giấy viết tay đó không phải là vấn đề ảnh hưởng tới quyền được lấy lại xe, bạn cần xuất trình giấy tờ chứng minh bạn là người mua xe thì có thể thực hiện các quyền của mình,

  • Xem thêm     

    10/04/2014, 12:14:52 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào anh!

    Với các thông tin anh cung cấp Luật sư tư vấn như sau:

    Trước hết nguyên nhân sự việc có xuất phát điểm từ trước - như anh nêu, thứ hai hành vi của người tên Kit và những người thanh niên cùng đuổi đánh chị gái và các cháu của anh có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội " Giết người" theo quy định tại khoản 1, Điều 93, Bộ luật Hình sự vì Kít phải ý thức được việc dùng các dụng cụ như anh nêu có thể tước đoạt tính mạng của người khác. Việc không có ai tử vong cũng có khả năng nằm ngoài ý chí của Kít.

    Trường hợp thứ hai là truy cứu trách nhiệm hình sự về tội " Cổ ý gây thương tích" theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự, nếu cơ quan chức năng truy cứu Kit theo tội danh này có lẽ là hơi nhẹ.

    Đối với các thanh niên những người cùng thực hiện vụ việc việc Kít thì có thể bị truy cứu cùng các tội danh với Kít với vai trò là người đồng phạm.

    Một vấn đề anh cũng đang rất quan tâm là việc bồi thường, khắc phục hậu quả của sự việc:

    Về nguyên tắc ngoài trách nhiệm hình sự, thì Kít cùng với các bạn của mình còn phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại những thiệt hại đó gồm: Chi phí chữa trị, thu nhập thực tế bị mất do phải điều trị, tiền bồi thường tổn thất về tinh thần.....

    Bạn cũng lưu ý trong vụ việc này cũng có một phần nguyên nhân từ bạn nhưng đó không phải là yếu tố chính và hành vi trả đũa của Kít cũng được thực hiện sau khi sự việc đã chấm dứt - khi anh về nhà đi ngủ.

    Điều 93, Điều 104  Bộ luật Hình sự và Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005

    Điều 93. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a)  Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng  hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g)  Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h)  Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i)  Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k)  Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết  người thuê;

    n)  Có tính chất côn đồ;

    o)  Có tổ chức;

    p)  Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Điều 609. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

    b) Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

    c) Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.

    2. Người xâm phạm sức khoẻ của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Trên đây là một số nội dung Luật sư tư vấn cho anh, chúc anh khỏe và sớm giải quyết được sự việc.

     

  • Xem thêm     

    09/04/2014, 03:39:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Nội dung thông tin em cung cấp bổ sung Luật sư tư vấn như sau:

    Theo quy định tại Nghị quyết số 01/2010/NQ-HDTP ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng điều 248 và 249 Bộ luật hình sự thì số tiền hoặc vật dùng đánh bạc được xác định tại Khoản 3, Điều 1 như sau:

    3. “Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc” bao gồm:

    a) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc thu giữ được trực tiếp tại chiếu bạc;

    b) Tiền hoặc hiện vật thu giữ được trong người các con bạc mà có căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc;

    c) Tiền hoặc hiện vật thu giữ ở những nơi khác mà có đủ căn cứ xác định đã được hoặc sẽ được dùng đánh bạc.

    4. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:

    a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;

    b) Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa... thì một lần chơi số đề, một lần cá độ bóng đá, một lần cá độ đua ngựa... (để tính là một lần đánh bạc) được hiểu là tham gia chơi trong một lô đề, tham gia cá độ trong một trận bóng đá, tham gia cá độ trong một kỳ đua ngựa... trong đó người chơi có thể chơi làm nhiều đợt. Trách nhiệm hình sự được xác định đối với người chơi một lần đánh bạc trong các trường hợp này là tổng số tiền, giá trị hiện vật dùng để chơi trong các đợt đó.

    Hiện giờ chồng em có lẽ đã bị khởi tố vụ án về tội đánh bạc, và không được tại ngoại.

    Việc một bị can, bị cáo được tại ngoại hay không phụ thuộc vào cơ quan điều tra nếu họ nhận thấy việc cho tại ngoại không ảnh hướng, không gây khó khăn cho việc điều tra thì bị can, bị cáo có cơ hội được tại ngoại.

    Việc tại ngoại cũng không đồng nghĩa với việc không vi phạm pháp luật - cho tại ngoại trong thời gian điều tra chỉ là một biện pháp tư pháp được quy định trong hệ thống pháp luật hình sự.

    Em có thể liên hệ với cơ quan đang trực tiếp giải quyết vụ việc của chồng em để biết thêm các thông tin.

    Chúc em mạnh khoẻ và thành công!

  • Xem thêm     

    09/04/2014, 10:04:43 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Em lên viết đơn tố cáo hành vi vu khống của người đó nhé.

48 Trang «<24252627282930>»