Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<56575859606162>»
  • Xem thêm     

    24/12/2014, 10:26:57 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu trường hợp sử dụng đất trên không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 100 Luật đất đai năm 2013 thì bạn xem có thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 101 Luật đất đai năm 2013 và hướng dẫn tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hay không, bạn tham khảo nội dung sau:

    "Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định

    1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).

    2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:

    a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

    b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;

    c) Quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;

    d) Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hòa giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất;

    đ) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;

    e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký;

    g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;

    h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;

    i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;

    k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

    3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

    4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất. "

  • Xem thêm     

    23/12/2014, 04:58:33 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể yêu cầu công ty cấp bản sao hợp đồng và các chứng từ về việc thanh toán để biết việc thực hiện nghĩa vụ của mình. Nếu hai bên có tranh chấp về thực hiện nghĩa vụ thì có thể khởi kiện để tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, với số tiền ít quá thì việc khởi kiện là không đáng vì không đủ chi phí thời gian tham gia vụ kiện.

  • Xem thêm     

    23/12/2014, 02:44:42 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu thửa đất của gia đình bạn không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 100 Luật đất đai thì bạn xem trường hợp của gia đình bạn có thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 101 Luật đất đai và hướng dẫn tại Điều 21 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP hay không.

  • Xem thêm     

    23/12/2014, 07:43:50 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    Nếu hôn nhân của bạn thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì Tòa án sẽ giải quyết cho bạn được đơn phương ly hôn:

    " "Điều 89. Căn cứ cho ly hôn

    1. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết định cho ly hôn.

    2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn..

    Nghị quyết số 02/200/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau:

     8. Căn cứ cho ly hôn (Điều 89)

               a. Theo quy định tại khoản 1 Điều 89 thì Toà án quyết định cho ly hôn nếu xét thấy tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được, mục đích của hôn nhân không đạt được.
               a.1. Được coi là tình trạng của vợ chồng trầm trọng khi:
               - Vợ, chồng không thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau như người nào chỉ biết bổn phận người đó, bỏ mặc người vợ hoặc người chồng muốn sống ra sao thì sống, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
               - Vợ hoặc chồng luôn có hành vi ngược đãi, hành hạ nhau, như thường xuyên đánh đập, hoặc có hành vi khác xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của nhau, đã được bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, đoàn thể nhắc nhở, hoà giải nhiều lần.
               - Vợ chồng không chung thuỷ với nhau như có quan hệ ngoại tình, đã được người vợ hoặc người chồng hoặc bà con thân thích của họ hoặc cơ quan, tổ chức, nhắc nhở, khuyên bảo nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình;
               a.2. Để có cơ sở nhận định đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được, thì phải căn cứ vào tình trạng hiện tại của vợ chồng đã đến mức trầm trọng như hướng dẫn tại điểm a.1 mục 8 này. Nếu thực tế cho thấy đã được nhắc nhở, hoà giải nhiều lần, nhưng vẫn tiếp tục có quan hệ ngoại tình hoặc vẫn tiếp tục sống ly thân, bỏ mặc nhau hoặc vẫn tiếp tục có hành vi ngược đãi hành hạ, xúc phạm nhau, thì có căn cứ để nhận định rằng đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài được.
               a.3. Mục đích của hôn nhân không đạt được là không có tình nghĩa vợ chồng; không bình đẳng về nghĩa vụ và quyền giữa vợ, chồng; không tôn trọng danh dự, nhân phẩm, uy tín của vợ, chồng; không tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của vợ, chồng; không giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển mọi mặt.
               b. Theo quy định tại khoản 2 Điều 89 thì: "trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Toà án tuyên bố mất tích xin ly hôn thì Toà án giải quyết cho ly hôn". Thực tiễn cho thấy có thể xảy ra hai trường hợp như sau:
               b.1. Người vợ hoặc người chồng đồng thời yêu cầu Toà án tuyên bố người chồng hoặc người vợ của mình mất tích và yêu cầu Toà án giải quyết cho ly hôn. Trong trường hợp này nếu Toà án tuyên bố người đó mất tích thì giải quyết cho ly hôn; nếu Toà án thấy chưa đủ điều kiện tuyên bố người đó mất tích thì bác các yêu cầu của người vợ hoặc người chồng.
               b.2. Người vợ hoặc người chồng đã bị Toà án tuyên bố mất tích theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Sau khi bản án của Toà án tuyên bố người vợ hoặc người chồng mất tích đã có hiệu lực pháp luật thì người chồng hoặc người vợ của người đó có yêu cầu xin ly hôn với người đó. Trong trường hợp này Toà án giải quyết cho ly hôn.

               b.3. Khi Toà án giải quyết cho ly hôn với người tuyên bố mất tích thì cần chú ý giải quyết việc quản lý tài sản của người bị tuyên bố mất tích theo đúng quy định tại Điều 89 Bộ luật dân sự."

  • Xem thêm     

    23/12/2014, 07:35:46 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định tại Điều 15, Điều 16 Bộ luật hình sự thì khi bị người khác tấn công, uy hiếp tính mạng, sức khỏe của mình hoặc của người khác thì ta có quyền chống trả lại một cách cần thiết hoặc có quyền gây thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại có thể xảy ra. Hành vi như vậy là phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và không phải là tội phạm. Tuy nhiên, nếu gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng mà thương tật của người bị hại từ 31% trở lên thì sẽ bị xử lý về tội gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

    2. Nếu anh bạn chỉ phòng vệ chính đáng thì không bị xử lý. Nếu anh bạn không được cho là phòng vệ chính đáng thì sẽ bị xử lý về hành vi gây rối trật tự công cộng. Nếu anh bạn không gây ra thương tích cho người đó thì có thể làm đơn trình báo về việc đã nhận thay người khác, thay đổi lời khai của mình để tránh oan sai và những hậu quả pháp lý bất lợi cho anh bạn. Vụ việc còn phụ thuộc vào từng hành vi cụ thể và hậu quả cụ thể./

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 03:23:12 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả  lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất đó đứng tên ông A trong bằng khoán điền thổ từ năm 1966, diện tích 100m2 nhưng trong quá trình sử dụng, ông A có cơi nới, mở rộng diện tích thêm 50m2. Như vậy, khi thực hiện thủ tục cấp GCN QSD đất thì cơ quan cấp GCN QSD đất sẽ làm rõ diện tích đất tăng lên đó có được coi là sử dụng ổn định theo quy định pháp luật không. Nếu diện tích đất đó sử dụng ổn định, liên tục, không có tranh chấp từ trước 15/10/1993 nay phù hợp với quy hoạch thì được công nhận quyền sử dụng đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ ông A sang bà B được giao kết từ tháng 8 năm 2014 tuy nhiên chưa thực hiện thủ tục theo quy định pháp luật nên không có giá trị pháp lý. Nay ông A đã chết nên các thừa kế của ông A có thể kê khai để xin cấp giấy chứng nhận cho những người đó. Sau khi có GCN QSD đất thì các bên mới có thể làm thủ tục chuyển nhượng theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 03:02:26 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu trong các giấy tờ về quyền sử dụng đất hoặc trong hồ sơ địa chính thể hiện diện tích đất khác nhau thì cơ quan quản lý đất đai tại địa phương phải có trách nhiệm giải thích lý do có sai lệch con số giữa hai loại giấy tờ này;

    2. Ngoài giấy tờ về quyền sử dụng đất thì cần phải kiểm tra lại diện tích đất trên thực địa. Cơ quan quản lý đất đai cũng phải làm rõ diện tích đất tăng lên hoặc giảm đi là do đo đạc sai sót hay do lấn chiếm, cơi nới mở rộng diện tích. Việc giải thích, trả lời này phải căn cứ vào hồ sơ địa chính, hiện trạng và lịch sử sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 02:53:16 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc về hụi, họ, biêu, phường là quan hệ dân sự. Nếu có tranh chấp thì một trong các bên có thể khởi kiện để tòa án giải quyết theo pháp luật.

    Nếu các bên tự giải quyết mà gây mất trật tự công cộng hoặc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người khác thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 09:37:51 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu đánh nhau là hành vi giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực, cố ý thực hiện hành vi để gây thương tích cho người khác thì những hành vi đó là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý theo quy định. Nêu thương tật dưới 11% và không thuộc một trong trong các trường hợp sau đây thì sẽ bị xử lý hành chính (tiền sự) :

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
    e) Có tổ chức;
    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.".

    Nếu cố ý gây thương tích cho người khác mà thuộc một trong các trường hợp trên thì du thương tích dưới 11% vẫn có thể bị xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật hình sự:

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác 

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:
    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;
    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;
    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;
    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;
    e) Có tổ chức;
    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;
    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;
    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;
    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.
    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.".

    2. Nếu hành vi đánh nhau, gây thương tích... như bạn nói là hành vi tự vệ (phòng vệ chính đáng), chống trả lại một cách cần thiết người đang tấn công mình hoặc tấn công người khác theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự thì không phải là tội phạm, người khòng vệ không phải chịu trách nhiệm hình sự. Nếu gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thì thương tật từ 31% trở lên mới bị xử lý hình sự. Bạn tham khảo quy định sau đây của bộ luật hình sự:

    "Điều 15. Phòng vệ chính đáng
    1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
    Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
    2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.

     

    Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự.

    Điều 105. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh 

     1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
    a) Đối với nhiều người;
    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.
    Điều 106. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng 
    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm. ".

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 09:10:47 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Quan hệ hôn nhân: Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, có hiệu lực tới ngày 01/01/2015 quy định:

    "Điều 9. Điều kiện kết hôn

    Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:

    1. Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;

    2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở;

    3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều 10 của Luật này.

    Điều 10. Những trường hợp cấm kết hôn

    Việc kết hôn bị cấm trong những trường hợp sau đây:

    1. Người đang có vợ hoặc có chồng;

    2. Người mất năng lực hành vi dân sự;

    3. Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;

    4. Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

    5. Giữa những người cùng giới tính. ".

    Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì bạn phải từ 20 tuổi và bạn gái của bạn phải từ 18 tuổi trở lên thì mới có thể đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Nếu bạn chưa đủ tuổi mà vẫn làm thủ tục đăng ký kết hôn thì việc đăng ký đó là trái pháp luật và có thể bị hủy bỏ theo quy định pháp luật.

               2. Trách nhiệm hình sự: Bộ luật hình sự quy định: " Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em  

    1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
    a) Phạm tội nhiều lần;
    b) Đối với nhiều người;
    c) Có tính chất loạn luân;
    d) Làm nạn nhân có thai;
    đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.".

    Như vậy, theo quy định của pháp luật trên thì nếu thời điểm quan hệ tình dục đầu tiền với bạn gái của bạn mà bạn gái chưa đủ 16 tuổi, đồng thời bạn đã đủ 18 tuổi thì mới bị xử lý hình sự về tội giao cấu với trẻ em. Nếu thời điểm quan hệ tình dục mà cả hai đều chưa thành niên hoặc cả hai đã thành niên (đủ 18 tuổi) thì không bị xử lý hình sự về tội danh trên.

  • Xem thêm     

    22/12/2014, 08:49:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Theo thông tin bạn nêu thì vụ việc của bạn chưa tới mức cấu thành tội phạm (thiệt hại chưa tới 30 triệu đồng hoặc thương tích chưa tới 31%...) Vì vậy, công an sẽ trả lại xe cho các bên sau khi làm xong các thủ tục theo quy định, đồng thời sẽ xử phạt hành chính với người có lỗi gây ra vụ tai nạn đó.

    Đối với việc bồi thường do các bên tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có thể khởi kiện để tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tòa án sẽ áp dụng quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (Điều 623 BLDS) để buộc người gây tai nạn phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho các nạn nhân.

  • Xem thêm     

    21/12/2014, 08:12:59 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định pháp luật hiện hành thì nam nữ từ đủ 16 tuổi trở lên tự nguyện quan hệ tình dục thì không bị xử lý hình sự.  Tuy nhiên, việc quan hệ tình dục không lành mạnh, trước hôn nhân sẽ làm nảy sinh nhiều hệ lụy có thể dẫn đến vi phạm pháp luật hình sự hoặc những rắc rối mà hậu quả đôi khi còn tồi tệ hơn là án hình sự. Do vậy, bạn không nên có những quan hệ kiểu này.

  • Xem thêm     

    21/12/2014, 07:59:41 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo pháp luật Việt Nam thì khi ly hôn, con chưa đủ 36 tháng tuổi sẽ cho mẹ chăm sóc trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Cò pháp luật Malaysia có thể quy định khác. Bạn có thể tham sao sự tư vấn của Luật sư Việt Nam đang hành nghề tại Malaysia để được biết chi tiết.

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 10:58:56 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Hành vi của bạn sẽ bị xử lý theo quy định tại Điều 5, Nghị định số 167/NĐ-CP. cụ thể như sau:

    "  

    Điều 5. Vi phạm quy định về trật tự công cộng

    1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100.000 đồng đến 300.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Có cử chỉ, lời nói thô bạo, khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác;

    b) Gây mất trật tự ở rạp hát, rạp chiếu phim, nhà văn hóa, câu lạc bộ, nơi biểu diễn nghệ thuật, nơi tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao, lễ hội, triển lãm, hội chợ, trụ sở cơ quan, tổ chức, khu dân cư, trường học, bệnh viện, nhà ga, bến tàu, bến xe, trên đường phố, ở khu vực cửa khẩu, cảng hoặc ở nơi công cộng khác;

    c) Thả rông động vật nuôi trong thành phố, thị xã hoặc nơi công cộng.

    2. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau;

    b) Báo thông tin giả đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

    c) Say rượu, bia gây mất trật tự công cộng;

    d) Ném gạch, đất, đá, cát hoặc bất cứ vật gì khác vào nhà, vào phương tiện giao thông, vào người, đồ vật, tài sản của người khác;

    đ) Tụ tập nhiều người ở nơi công cộng gây mất trật tự công cộng;

    e) Để động vật nuôi gây thiệt hại tài sản cho người khác;

    g) Thả diều, bóng bay, chơi máy bay, đĩa bay có điều khiển từ xa hoặc các vật bay khác ở khu vực sân bay, khu vực cấm; đốt và thả "đèn trời";

    h) Sách nhiễu, gây phiền hà cho người khác khi bốc vác, chuyên chở, giữ hành lý ở các bến tàu, bến xe, sân bay, bến cảng, ga đường sắt và nơi công cộng khác.

    3. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác;

    b) Lôi kéo hoặc kích động người khác gây rối, làm mất trật tự công cộng;

    c) Thuê hoặc lôi kéo người khác đánh nhau;

    d) Gây rối trật tự tại phiên tòa, nơi thi hành án hoặc có hành vi khác gây trở ngại cho hoạt động xét xử, thi hành án;

    đ) Gây rối trật tự tại nơi tổ chức thi hành quyết định cưỡng chế;

    e) Xâm hại hoặc thuê người khác xâm hại đến sức khỏe của người khác;

    g) Lợi dụng quyền tự do dân chủ, tự do tín ngưỡng để lôi kéo, kích động người khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

    h) Gây rối hoặc cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức;

    i) Tập trung đông người trái pháp luật tại nơi công cộng hoặc các địa điểm, khu vực cấm;

    k) Tổ chức, tạo điều kiện cho người khác kết hôn với người nước ngoài trái với thuần phong mỹ tục hoặc trái với quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng tới an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    l) Viết, phát tán, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc bịa đặt, vu cáo làm ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức, cá nhân;

    m) Tàng trữ, vận chuyển "đèn trời".

    4. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây:

    a) Gây rối trật tự công cộng mà có mang theo các loại vũ khí thô sơ hoặc công cụ hỗ trợ;

    b) Sản xuất, nhập khẩu, buôn bán "đèn trời".

    5. Hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính đối với hành vi quy định tại Điểm g Khoản 2; Điểm a, l, m Khoản 3 và Khoản 4 Điều này.

    6. Người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính quy định tại Điểm k Khoản 3 Điều này, thì tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.". 

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 10:19:15 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    - Trước tiên phải xác định giấy biên nhân tiền trên là một giao tịch dân sự, thể hiện nội dung là anh B đó có nhận bạn một khoản tiền là 25 trđ. Nếu có tranh chấp về việc hưởng thụ số tiền đó và trách nhiệm với số tiền đó thì hậu quả pháp lý có thể như sau:

    + Bạn khởi kiện tới tòa án để đòi tiền theo thủ tục tố tụng dân sự thì anh B phải trả lại số tiền đó cho bạn nếu anh B không chứng minh được là anh ta được sở hữu số tiền đó một cách hợp pháp (trả nợ, được cho, được trả công..);

    + Nếu bạn tố cáo anh B tới công an thì có thể xảy ra một trong các tình huống sau:

    -> Nếu cơ quan công an chứng minh được A và B có bàn bạc, thống nhất để thực hiện hành vi đưa hối lộ (đưa tiền cho người có chức vụ quyền hạn để làm sai lệch kết quả tuyển dụng) thì cả A và B đều bị xử lý về hành vi đưa hối lộ;

    -> Nếu B đưa ra thông tin gian dối làm A hiểu lầm để lừa đảo, chiếm đoạt số tiền đó của A thì B bị khởi tố vể tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản;

    -> Nếu cơ quan công an xác định A và B đều biết việc sử dụng tiền để chạy việc là trái pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện thì sẽ tịch thu số tiền đó để xung công quỹ và có thể xử lý hành chính cả hai bên nếu không đủ căn cứ xử lý về tội đưa, nhận hối lộ.

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 09:22:45 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

     Nếu hai bên không thương lượng được về mức bồi thường thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết theo pháp luật. Các khoản chi phí hợp lý và các khoản chi có chứng từ hợp lệ mới được tòa án chấp nhận. Bạn tham khảo Điều 610 và Điều 623 Bộ luật dân sự năm 2005 để biết thêm về mức bồi thường và trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp của bạn.

    Pháp luật hiện hành không quy định cụ thể thời hạn cơ quan công an được giữ xe là bao lâu. Mục đích của việc giữ xe trong trường hợp của bạn là để giám định, xác định mức độ lỗi và trách nhiệm của mỗi bên, thời hạn kiểm tra, xác minh là 20 ngày, nếu vụ việc phức tạp có thể kéo dài tới 2 tháng. Vì vậy có thể giữ xe bạn tới 2 tháng để xác minh sự việc. Việc giữ xe phải được lập thành biên bản và ra quyết định tạm giữ. Nếu vụ việc đã được làm rõ mà công an cố tình không trả xe cho bạn thì bạn có thể khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định pháp luật.

     

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 08:48:54 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể căn cứ vào quy định tại Điều 122, Điều 132, Điều 137, Điều 258 Bộ luật dân sự năm 2005 để bảo vệ quyền lời hợp pháp của mình.

    Nếu tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì bên chuyển nhượng phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bạn theo quy định pháp luật.

     

    Điều 132 Bộ luật dân sự quy định “ Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.

    Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.

    Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình.”

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 05:30:56 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Trong vụ việc của bạn phải làm rõ bản chất pháp lý của hai giao dịch là giao dịch năm 1992 giữa anh thứ 8 của bạn với người chuyển nhượng thửa đất đó; Và giao dịch giữa anh thứ 8 với anh thứ 10 (nhờ đứng tên).

    - Theo thông tin bạn nêu thì anh thứ 8 của bạn nhận chuyển nhượng từ năm 1992 bằng giấy viết tay, nhưng đã sử dụng ổn định, liên tục không có tranh chấp vì vậy có thể được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 2, hoặc khoản 4, Điều 50 Luật đất đai năm 2003.

    - Nếu anh thứ 8 có văn bản tặng cho, chuyển nhượng cho anh thứ 10 và anh thứ 10 đã được cấp GCN QSD đất, thủ tục chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện theo đúng quy định pháp luật thì thửa đất đó là tài sản của anh thứ 10, anh em bạn không thể khởi kiện để yêu cầu chia thừa kế của anh thứ 8 được nữa (vì di sản không còn).

    2. Nếu có chứng cứ thể hiện là việc anh thứ 10 đứng tên chỉ là (đứng tên giùm), anh thứ 8 chưa định đoạt thửa đất đó hoặc việc định đoạt không hợp pháp, giao dịch giữa anh thứ 8 với anh thứ 10 bị hủy bỏ thì anh em bạn có quyền khởi kiện để chia khối bất động sản đó cho các anh em trong nhà theo quy định pháp luật về thừa kế.

    Bạn cần xem lại hồ sơ xin cấp GCN QSD đất của anh thứ 10 để biết về tính pháp lý của giao dịch đó.

    3. Việc thuê nhà, cho thuê nhà thực hiện theo hợp đồng thuê nhà đã được hai bên ký kết. Theo quy định pháp luật thì hợp đồng thuê nhà do người chủ sở hữu ngôi nhà đó quyết định. Nếu có tranh chấp về hợp đồng thì có thể yêu cầu tòa án giải quyết. Với thời điểm hiện tại, anh thứ 10 đang có tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vì vậy anh thứ 10 sẽ có toàn quyền quyết định đối với thửa đất đó cho đến khi giấy chứng nhận đó bị điều chính hoặc hủy bỏ (nếu có).

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 04:32:33 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Nếu thửa đất trên thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 100 luật đất đai hoặc trường hợp quy định tại Điều 101 Luật đất đai năm 2013 và hướng dẫn tại Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì được cấp GCN QSD đất mà không phải nộp tiền sử dụng đất.

    Bạn tham khảo luật đất đai năm 2013, cụ thể như sau:

    Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

    g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    3. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.".

    - Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định như sau:

    Điều 21. Căn cứ xác định việc sử dụng đất ổn định

    1. Sử dụng đất ổn định là việc sử dụng đất liên tục vào một mục đích chính nhất định kể từ thời điểm bắt đầu sử dụng đất vào mục đích đó đến thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc đến thời điểm quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận).

    2. Thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định căn cứ vào thời gian và nội dung có liên quan đến mục đích sử dụng đất ghi trên một trong các giấy tờ sau đây:

    a) Biên lai nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế nhà đất;

    b) Biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc sử dụng đất, biên bản hoặc quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong việc xây dựng công trình gắn liền với đất;

    c) Quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực thi hành, quyết định thi hành bản án của cơ quan Thi hành án đã được thi hành về tài sản gắn liền với đất;

    d) Quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực thi hành; biên bản hòa giải tranh chấp đất đai có chữ ký của các bên và xác nhận của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất;

    đ) Quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền có liên quan đến việc sử dụng đất;

    e) Giấy tờ về đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú dài hạn tại nhà ở gắn với đất ở; Giấy chứng minh nhân dân hoặc Giấy khai sinh, giấy tờ nộp tiền điện, nước và các khoản nộp khác có ghi địa chỉ nhà ở tại thửa đất đăng ký;

    g) Giấy tờ về việc giao, phân, cấp nhà hoặc đất của cơ quan, tổ chức được Nhà nước giao quản lý, sử dụng đất;

    h) Giấy tờ về mua bán nhà, tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ về mua bán đất, chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên liên quan;

    i) Bản đồ, sổ mục kê, tài liệu điều tra, đo đạc về đất đai qua các thời kỳ;

    k) Bản kê khai đăng ký nhà, đất có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã tại thời điểm kê khai đăng ký.

    3. Trường hợp thời điểm sử dụng đất thể hiện trên các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này có sự không thống nhất thì thời điểm bắt đầu sử dụng đất ổn định được xác định theo giấy tờ có ghi ngày tháng năm sử dụng đất sớm nhất.

    4. Trường hợp không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Khoản 2 Điều này hoặc trên giấy tờ đó không ghi rõ thời điểm xác lập giấy tờ và mục đích sử dụng đất thì phải có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về thời điểm bắt đầu sử dụng đất và mục đích sử dụng đất trên cơ sở thu thập ý kiến của những người đã từng cư trú cùng thời điểm bắt đầu sử dụng đất của người có yêu cầu xác nhận trong khu dân cư (thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố) nơi có đất.".

  • Xem thêm     

    20/12/2014, 12:25:09 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn làm đơn xin đính chính lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và xuất trình kèm theo, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn và tài liệu chứng minh thửa đất đó là tài sản chung của vợ chồng bạn để Phòng TNMT đính chính lại GCN cho bạn.

344 Trang «<56575859606162>»