Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<33343536373839>»
  • Xem thêm     

    14/08/2015, 04:31:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Trong trường hợp trên, gia đình bạn nên làm đơn trình báo sự việc với công an, đồng thời chuẩn bị các chứng cứ về những cuộc hội thoại, uy hiếp, đe dọa đó. Nếu gia đình bạn không có đơn thư trình báo kịp thời và không chuẩn bị các chứng cứ về việc cưỡng bức nêu trên thì em bạn có thể bị đẩy vào các tội phạm hình sự như lừa đảo chiếp đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ...

  • Xem thêm     

    14/08/2015, 03:12:55 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !
    Hiện nay tính thuế thu nhập cá nhân từ việc chuyển quyền sử dụng đất được áp dụng là 2% giá trị chuyển nhượng.

  • Xem thêm     

    09/08/2015, 08:43:51 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Việc vay tiền là giao dịch dân sự, nếu bên vay tiền không trả nợ đúng hạn thì bên cho vay có thể khởi kiện tới tòa án nơi bên vay cư trú để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu bên cho vay có chứng cứ chứng minh về việc cho vay, bên vay không chứng minh được là mình đã trả hết nợ thì tòa án sẽ phán quyết buộc bên vay phải trả số tiền còn thiếu. Tiền lãi suất so hai bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố.

    2. Nếu vay tiền sau đó gian dôi hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền cho vay đó, không có ý định trả lại tiền thì mới bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Bỏ trốn khác đi khỏi nơi cư trú ở chỗ bỏ trốn là cắt đứt liên lạc với chủ nợ, bỏ đi có chủ đích để không ai biết, không ai tìm thấy... nhằm mục đích không trả nợ nữa. Còn chuyển nơi cư trú là hợp pháp theo quy luật cư trú, tự do cư trú, chỉ cần người vay tiền có báo cho cơ quan quản lý nhân khẩu, hộ khẩu là không được coi là bỏ trốn.

    Ngoài ra, nếu mượn tiền sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp như đánh bạc, buôn lậu... dẫn đến mất khả năng trả lại tài sản thì mới có thể bị xử lý về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 BLHS.

  • Xem thêm     

    09/08/2015, 08:35:48 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn! 

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định pháp luật thì ô tô, xe máy là nguồn nguy hiểm cao độ, người sử dụng nó gây thiệt hại cho người khác kể cả trong trường hợp không có lỗi thì vẫn phải bồi thường. Vì vậy, gia đình bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu người gây tai nạn đó phải bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn. Bạn cũng lưu ý là gia đình bạn chỉ được yêu cầu, còn việc bồi thường hay không thì do họ tự nguyện, nếu họ không tự nguyện thì gia đình bạn có thể khởi kiện tới tòa án để yêu cầu tòa án giải quyết, tuyệt đối không được đe dọa, uy hiếp họ để lấy tiền.

    2. Theo thông tin bạn nêu thì người gây tai nạn cho chị bạn đã vi phạm luật giao thông gây ra tai nạn cho chị bạn, bởi vậy ngoài việc bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 623 Bộ luật dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP thì người đó còn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ nếu thương tích của chị bạn từ 31% trở lên.

    3. Với tư cách là một cán bộ, chiến sĩ công an vi phạm luật giao thông thì người này sẽ bị kỷ luật theo quy định và phải chịu trách nhiệm pháp lý như đã nêu ở trên. Gia đình bạn có thể làm đơn trình báo sự việc với công an huyện để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    09/08/2015, 08:25:50 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất trên hiện nay vẫn là đất nông nghiệp của ba hộ dân, chưa bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định thu hồi. Vì vậy, không đủ căn cứ pháp lý để giao đất, cấp đất cho ông T. Việc UBND xã giao diện tích đất trên cho ông T vào năm 2010 mà không được sự đồng ý, thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất của các hộ có đất là trái với quy định pháp luật.

    2. Thửa đất trên không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T theo quy định của luật đất đai qua các thời kỳ. Trước đây, theo quy định của Luật đất đai năm 2003 và hướng dẫn tại Điều 16, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP thì có thể xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất do giao trái thẩm quyền trước ngày 15/10/1993 nhưng người sử dụng đất đã sử dụng đất ổn định, có biên lai nộp tiền để được sử dụng:

    " Điều 16. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đất đã được giao không đúng thẩm quyền trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 nhưng người đang sử dụng đất đã nộp tiền để được sử dụng đất

    Đất được giao không đúng thẩm quyền nhưng người đang sử dụng đất có giấy tờ chứng minh về việc đã nộp tiền cho cơ quan, tổ chức để được sử dụng đất trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận theo quy định sau đây:

    1. Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 thì được cấp Giấy chứng nhận đối với diện tích đất đã được giao và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Trường hợp đất đã được sử dụng ổn định trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì thực hiện như sau:

    a) Đối với diện tích đất được giao thuộc nhóm đất nông nghiệp hoặc đất phi nông nghiệp nhưng không phải đất ở thì được cấp Giấy chứng nhận và không phải nộp tiền sử dụng đất;

    b) Đối với diện tích đất được giao làm đất ở trong hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai thì được cấp Giấy chứng nhận và không phải nộp tiền sử dụng đất; đối với diện tích đất còn lại đã có nhà ở (nếu có) thì được cấp Giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP; đối với diện tích còn lại không có nhà ở (nếu có) được xác định là đất nông nghiệp theo hiện trạng sử dụng, nếu người sử dụng đất đề nghị được chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì được cấp Giấy chứng nhận và phải nộp tiền sử dụng đất theo mức thu quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 17/2006/NĐ-CP.

    Sau khi có luật đất đai năm 2013 thì Điều 23, Nghị định số 43/2014/NĐ-CP cũng quy định trường hợp giao đất trái thẩm quyền trước năm 1993 thì người sử dụng đất mới có thể được xem xét cấp GCN QSD đất:

    "Điều 23. Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đã được giao không đúng thẩm quyền

    1. Đất giao không đúng thẩm quyền cho hộ gia đình, cá nhân quy định tại Điều này bao gồm các trường hợp người đứng đầu điểm dân cư giao đất hoặc Ủy ban nhân dân cấp xã giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai qua các thời kỳ; tổ chức được Nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng nhưng đã tự phân phối, bố trí cho cán bộ, công nhân viên, xã viên để sử dụng làm nhà ở và các mục đích khác.

    2. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì người đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với diện tích đất đã được giao theo quy định tại Khoản 1 Điều 20 của Nghị định này.

    3. Trường hợp đất được giao không đúng thẩm quyền đã được sử dụng ổn định từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2014, không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định tại Khoản 2 Điều 20 của Nghị định này.

    Trường hợp thửa đất có vườn, ao gắn liền với nhà ở hoặc công trình xây dựng khác thì diện tích còn lại không có nhà ở, công trình xây dựng được xác định là đất nông nghiệp theo hiện trạng đang sử dụng, nếu người sử dụng đất đề nghị được chuyển sang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất.

    4. Người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều này phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    5. Nhà nước không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và thu hồi toàn bộ diện tích đất đã giao, cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2014 trở về sau.".

    Như vậy, trường hợp giao đất trái thẩm quyền sau ngày 15/10/1993 là sử dụng đất bất hợp pháp, không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Những cán bộ giao đất trái thẩm quyền sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, nêu gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quản lý đất đai.

    Khoản 5 Điều 24 Thông tư 23/2014/TT-BTNMT ngày 19/5/2014 quy định về Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ở của Bộ TN&MT quy định: "Việc cấp giấy chứng nhận đối với trường hợp được giao đất trái thẩm quyền quy định tại Điều 23 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể sau khi đã làm rõ và xử lý trách nhiệm đối với người giao đất không đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật...".

  • Xem thêm     

    08/08/2015, 11:59:53 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu em bạn có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác với số tiền chiếm đoạt từ 2 triệu đồng trở lên thì sẽ bị xử lý hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể hình phạt được quy định như sau:

    "

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản 

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tổ chức;
      b) Có tính chất chuyên nghiệp;
      c) Tái phạm nguy hiểm;
      d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
      đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
      e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;
      g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;
      b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
      a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
      b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

     

    2. Trong trường hợp cơ quan điều tra còn phát hiện em bạn đánh bạc thì em bạn còn bị xử lý về tội đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS, cụ thể như sau:

     

    "Điều 248. Tội đánh bạc  

    1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 249 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
      a) Có tính chất chuyên nghiệp;
      b) Tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc có giá trị từ năm mươi triệu đồng trở lên;
      c) Tái phạm nguy hiểm.
    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng."

     

    Mức hình phạt cụ thể sẽ do tòa án quyết định căn cứ vào các quy định pháp luật nêu trên, tính chất của vụ việc, nhân thân của em bạn và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Nếu bị xét xử về nhiều tội thì em bạn sẽ bị tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50 BLHS để chấp hành một hình phạt chung.

  • Xem thêm     

    08/08/2015, 11:52:38 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
          Theo quy định của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây thì khi hết thời hiệu ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thì người có thẩm quyền không được ra quyết định xử phạt nhưng vẫn có quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả.

        Luật Xử lý vi phạm hành chính được Quốc Hội thông qua ngày 20 tháng 6 năm 2012, thay thế Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã quy định bổ sung thêm một số biện pháp khắc phục hậu quả, quy định rõ ràng hơn, cụ thể hơn về nguyên tắc áp dụng, thẩm quyền ra quyết định và thời hạn thi hành biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên, Luật không có điều khoản nào quy định cụ thể về thời hiệu áp dụng biện pháp này, do vậy trong quá trình thực thi có nhiều cách hiểu khác nhau, dẫn đến sự không thống nhất. Cụ thể, có ý kiến cho rằng thời hiệu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong xử lý vi phạm hành chính là thời hiệu xử lý vi phạm hành chính được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Xử  lý vi phạm hành chính. Quan điểm này căn cứ vào giải thích từ ngữ tại Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính, khoản 2 Điều này giải thích như sau: “Xử phạt vi phạm hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Theo quy định này thì biện pháp khắc phục hậu quả được hiểu là một hình thức xử phạt vi phạm hành chính ngoài các hình thức xử phạt quy định tại Điều 21 Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do vậy, quy định về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính tại khoản 1 Điều 6 Luật này được áp dụng cả đối với biện pháp khắc phục hậu quả. Theo đó, thời hiệu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả đối với vi phạm hành chính thông thường là 01 năm. Đối với các trường hợp vi phạm hành chính về kế toán; thủ tục thuế; phí, lệ phí; kinh doanh bảo hiểm; quản lý giá; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; xây dựng; bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, hải sản; quản lý rừng, lâm sản; điều tra, quy hoạch, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên nước; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản khác; bảo vệ môi trường; năng lượng nguyên tử; quản lý, phát triển nhà và công sở; đất đai; đê điều; báo chí; xuất bản; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, kinh doanh hàng hóa; sản xuất, buôn bán hàng cấm, hàng giả; quản lý lao động ngoài nước thì thời hiệu xử phạt vi là 02 năm. Ngoài ra, vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế như: trốn thuế, gian lận thuế, nộp chậm tiền thuế, khai thiếu nghĩa vụ thuế thì áp dụng thời hiệu theo quy định của pháp luật về thuế.

    Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng mặc dù Luật Xử lý vi phạm hành chính không có điều khoản quy định cụ thể về thời hiệu áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nhưng việc áp dụng biện pháp này được hiểu là vô thời hạn. Quan điểm này căn cứ vào khoản 2 Điều 65 như sau:Đối với trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này, người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng có thể ra quyết định tịch thu sung vào ngân sách nhà nước hoặc tiêu hủy tang vật vi phạm hành chính thuộc loại cấm lưu hành và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này. Điểm c Điều 65 quy định những trường hợp không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bao gồm Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 6 hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt quy định tại khoản 3 Điều 63 hoặc khoản 1 Điều 66 của Luật này’. Căn cứ vào những quy định này có thể hiểu rằng, một hành vi vi phạm hành chính nếu hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc hết thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính sẽ không bị ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng người có thẩm quyền vẫn có thể ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Do việc ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả không bị giới hạn bởi thời hạn xử phạt vi phạm hành chính và thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên được hiểu là vô thời hạn, có nghĩa rằng người có thẩm quyền có thể ra quyết định áp dụng biện pháp này bất cứ thời điểm nào kể từ thời điểm chấm dứt hoặc phát hiện hành vi vi phạm.

  • Xem thêm     

    08/08/2015, 11:23:18 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Khi ly hôn thì có các vấn đề phát sinh cần giải quyết là việc nuôi con, chăm sóc con sau ly hôn và vấn đề chia tài sản chung vợ chồng.

    - Đối với việc chăm sóc con sau ly hôn thì do vợ chồng tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết. Tòa án sẽ căn cứ vào chứng cứ mà hai bên xuất trình để giao con cho một bên nuôi dưỡng để đảm bảo cho con được phát triển tốt nhất về thể chất, tinh thần và điều kiện học tập; Nếu con từ 7 tuổi trở lên thì cần hỏi ý kiến của con trước khi tòa án quyết định; Con dưới 36 tháng tuổi thì do mẹ chăm sóc, trừ trường hợp người mẹ không thể chăm sóc được một cách bình thường. Vì vậy, bạn cần chuẩn bị và cung cấp các chứng cứ để chứng minh khả năng, điều kiện nuôi dạy, chăm sóc con của bạn tốt hơn chồng bạn làm căn cứ để tòa án giải quyết (trong trường hợp có tranh chấp về quyền nuôi con.).

    - Đối với tài sản: Việc chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn cũng do hai vợ chồng thỏa thuận. Nếu hai vợ chồng không thỏa thuận được và có yêu cầu thì tòa án sẽ thụ lý giải quyết theo nguyên tắc: Tài sản chung sẽ chia đôi nhưng có căn cứ vào nguồn gốc, công sức đóng góp trên cơ sở đảm bảo quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Tài sản chung là tài sản được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được tặng cho chung, thừa kế chung; Tài sản hình thành từ tài sản chung; Tài sản được nhập vào từ tài sản riêng... Theo thông tin bạn nêu thì thửa đất của chồng bạn có trước hôn nhân nhưng ngôi nhà được hình thành trong thời kỳ hôn nhân, do hai vợ chồng đóng góp, xây dựng thì giá trị ngôi nhà là phần tài sản chung. Nhà chung cư là tài sản chung. Việc nội trợ của phụ nữ cũng là công sức đóng góp cho gia trình để hình thành các khổi tài sản chung.

    2. Bạn tham khảo các quy định sau đây của luật hôn nhân và gia đình năm 2014:

    "

    Điều 33. Tài sản chung của vợ chồng

    1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.

    Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

    2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.

    3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

    Điều 43. Tài sản riêng của vợ, chồng

    1. Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

     

    2. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 33 và khoản 1 Điều 40 của Luật này.

    Điều 59. Nguyên tắc giải quyết tài sản của vợ chồng khi ly hôn

    1. Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định thì việc giải quyết tài sản do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của hai vợ chồng, Tòa án giải quyết theo quy định tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này.

    Trong trường hợp chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì việc giải quyết tài sản khi ly hôn được áp dụng theo thỏa thuận đó; nếu thỏa thuận không đầy đủ, rõ ràng thì áp dụng quy định tương ứng tại các khoản 2, 3, 4 và 5 Điều này và tại các điều 60, 61, 62, 63 và 64 của Luật này để giải quyết.

    2. Tài sản chung của vợ chồng được chia đôi nhưng có tính đến các yếu tố sau đây:

    a) Hoàn cảnh của gia đình và của vợ, chồng;

    b) Công sức đóng góp của vợ, chồng vào việc tạo lập, duy trì và phát triển khối tài sản chung. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Lỗi của mỗi bên trong vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng.

    3. Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật, nếu không chia được bằng hiện vật thì chia theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần chênh lệch.

    4. Tài sản riêng của vợ, chồng thuộc quyền sở hữu của người đó, trừ trường hợp tài sản riêng đã nhập vào tài sản chung theo quy định của Luật này.

    Trong trường hợp có sự sáp nhập, trộn lẫn giữa tài sản riêng với tài sản chung mà vợ, chồng có yêu cầu về chia tài sản thì được thanh toán phần giá trị tài sản của mình đóng góp vào khối tài sản đó, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

    5. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

     

    6. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn Điều này.

    Điều 62. Chia quyền sử dụng đất của vợ chồng khi ly hôn

    1. Quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bên nào thì khi ly hôn vẫn thuộc về bên đó.

    2. Việc chia quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được thực hiện như sau:

    a) Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 59 của Luật này.

    Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng;

    b) Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản này;

    c) Đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở thì được chia theo quy định tại Điều 59 của Luật này;

    d) Đối với loại đất khác thì được chia theo quy định của pháp luật về đất đai.

     

    3. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà không có quyền sử dụng đất chung với hộ gia đình thì khi ly hôn quyền lợi của bên không có quyền sử dụng đất và không tiếp tục sống chung với gia đình được giải quyết theo quy định tại Điều 61 của Luật này.

    Điều 81. Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn

    1. Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

    2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

    3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con.

    Điều 82. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

    1. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

    2. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.

    3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

    Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

    Điều 83. Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

    1. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình.

    2. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

     

    "

  • Xem thêm     

    07/08/2015, 06:14:46 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


     Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi được quy định tại Điều 36 Bộ luật tố tụng dân sự như sau:

    "Điều 36. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu

    1. Nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động trong các trường hợp sau đây:

    a) Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;

    b) Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;

    c) Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;

    d) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;

    đ) Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại, trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội, quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác đối với người lao động thì nguyên đơn là người lao động có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;

    e) Nếu tranh chấp phát sinh từ việc sử dụng lao động của người cai thầu hoặc người có vai trò trung gian thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi người sử dụng lao động là chủ chính cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi người cai thầu, người có vai trò trung gian cư trú, làm việc giải quyết;

    g) Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;

    h) Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;

    i) Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.

    2. Người yêu cầu có quyền lựa chọn Tòa án giải quyết yêu cầu về dân sự, hôn nhân và gia đình trong các trường hợp sau đây:

    a) Đối với các yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 26 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi mình cư trú, làm việc hoặc có trụ sở giải quyết;

    b) Đối với yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật này thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết;

    c) Đối với yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn thì người yêu cầu có thể yêu cầu Tòa án nơi người con cư trú giải quyết.".  Nghij quyết số 01/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn như sau: NghiVề quy định tại Điều 36 của BLTTDS

    5.1. Khi xem xét yêu cầu của nguyên đơn lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự thì ngoài việc phải thực hiện đúng quy định tại Điều 33 và Điều 34 của BLTTDS về thẩm quyền của các cấp Toà án, cần phân biệt như sau:

    a. Đối với trường hợp mà Điều 36 của BLTTDS quy định yêu cầu lựa chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự phải có điều kiện, thì Toà án chỉ chấp nhận yêu cầu khi điều kiện đó xảy ra.

    Ví dụ: Điểm a khoản 1 Điều 36 của BLTTDS quy định: "Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thề yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết Như vậy chỉ trong trường hợp không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn, thì nguyên đơn mới có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết.

    b. Đối với trường hợp mà Điều 36 của BLTMS quy định yêu CầU lựa Chọn Toà án giải quyết vụ việc dân sự không cần bất cứ điều kiện nào, thì Toà án chấp nhận yêu cầu đó.

    Ví dụ: Điểm d khoản 1 Điều 36 của BLTTDS quy định: "Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết.

    Như vậy, trong trường hợp này việc yêu cầu lựa chọn Toà án giải quyết tranh chấp dân sự không đòi hỏi phải có bất kỳ điều kiện nào, nên nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết và Toà án chấp nhận yêu cầu đó.

    5.2. Trong trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu được quyền lựa chọn nhiều Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự (ví dụ: Toà án nơi bị đơn cư trú làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản - điểm a khoản 1 Điều 36 của BLTTDS), thì khi nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu, Toà án phải giải thích cho họ biết là chỉ có một Toà án trong các Toà án được Điều luật quy định mới có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự để họ lựa chọn. Toà án do họ lựa chọn yêu cầu người khởi kiện, người yêu cầu phải cam kết trong đơn khởi kiện không khởi kiện hoặc trong đơn yêu cầu không yêu cầu tại các Toà án khác.

    Trong trường hợp người khởi kiện, người yêu cầu nộp đơn khởi kiện, nộp đơn yêu cầu tại nhiều Toà án khác nhau được Điều luật quy định, thì Toà án đã thụ lý đầu tiên theo thời gian có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Các Toà án khác, nếu chưa thụ lý thì căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 168 của BLTTDS trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; nếu đã thụ lý thì căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 168 và khoản 2 Điều 192 của BLTTDS ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ việc dân sự, xoá tên vụ việc dân sự đó trong sổ thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu cùng tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự.

    Nếu đương sự đã nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án căn cứ vào khoản 3 Điều 193 của BLTTDS trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp.

    Như vậy, theo quy định pháp luật trên thì bạn có thể gửi đơn xin ly hôn đơn phương tới tòa án nơi chồng bạn cư trú hoặc tòa án nơi chồng bạn làm việc để được xem xét giải quyết theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    07/08/2015, 05:25:30 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Với số tiền mình đã nhận rồi thì không lên chối, cũng không nên đòi. Nội dung yêu cầu khởi kiện của mẹ bạn là đòi số tiền còn thiếu thôi.

  • Xem thêm     

    06/08/2015, 05:29:40 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo thông tin bạn nêu thì giao dịch giữa mẹ bạn với chị S về việc vay tiền là hợp đồng vay tài sản được quy định tại mục 4, Phần II, Chương XVIII Bộ luật dân sự, theo đó bên vay tiền có nghĩa vụ trả tiền cho gia đình bạn. Nếu chi S không trả tiền đúng hạn thì mẹ bạn có quyền khởi kiện tới tòa án nơi chị S cư trú theo thủ tục tố tụng dân sự để được giải quyết.

    2. Chỉ cần có giấy nhận tiền viết tay, có chữ ký của chị S và chị S không có chứng cứ nào chứng minh là đã trả nợ hoặc thừa nhận số nợ đó là mẹ bạn sẽ thắng kiện, Tòa án sẽ có bản án, quyết định để buộc chị S phải trả tiền cho mẹ bạn. Số tiền mà chị S phải trả là toàn bộ tiền nợ gốc và tiền lãi theo thỏa thuận hoặc theo quy định pháp luật.

    3. Sau khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp luật mà chị S không tự nguyên chấp hành thì mẹ bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành án với chị S và chị S phải trả thêm tiền phí cưỡng chế và tiền lãi suất do chậm trả trong thời gian thi hành án.

    4. Bạn có thể tham khảo mẫu đơn khởi kiện tại đây:   http://trungtamtuvanphapluat.vn/chi-tiet/mau-don-khoi-kien-vu-an-dan-su.html

     

  • Xem thêm     

    02/08/2015, 10:48:41 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

     

    Nếu kết quả giải quyết của cơ quan công an đối với đơn thư tố giác của bạn không đúng pháp luật thì bạn có thể khiếu nại đến thủ trưởng cơ quan điều tra hoặc khiếu nại sang viện kiểm sát cùng cấp để được xem xét. Bạn cũng có thể cung cấp thêm các thông tin, chứng cứ, tài liệu về việc bỏ trốn hoặc gian đối hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp của đối tượng vay tiền của bạn làm căn cứ để xem xét tách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    02/08/2015, 10:43:40 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn !

    Nếu bạn không thể chờ đợi ngày chồng bạn chấp hành xong án tù đó thì bạn có thể làm thủ tục để ly hôn theo quy định pháp luật. Trong trường hợp chồng bạn cũng đồng ý ly hôn thì thủ tục sẽ được thực hiện nhanh hơn. 

  • Xem thêm     

    31/07/2015, 06:07:30 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Theo quy định của pháp luật thì quan hệ vay mượn tiền, vay mượn tài sản là "quan hệ pháp luật dân sự" được quy định, giải quyết bằng Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự.

    Theo quy định tại Điều 255, Điều 256 và các quy định tại Mục 4, Chương XVIII Bộ luật dân sự năm 2005 thì bạn có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tiền đó (trong trường hợp bên vay tiền không trả tiền đúng hẹn.

    Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc là nơi có thẩm quyền giải quyết vụ việc này. Vì vậy, bạn cần có chứng cứ về việc bên vay tiền đang cư trú tại địa chỉ nào thì tòa án nơi đó mới thụ lý vụ án để giải quyết.

    Nếu bên vay tiền đã đi khỏi nơi cư trú mà bạn không rõ ở đâu thì tòa án không thể thụ lý, giải quyết vụ án cho bạn được.

    2. Bạn cần phân biệt hai khái niệm: "Đi khỏi nơi cư trú" và "Bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản". Theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì sau khi vay được tài sản mà người vay không muốn trả lại tài sản (có mục đích chiếm đoạt) và thực hiện hành vi "bỏ trốn" nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới bị xử lý hình sự theo điều luật này. Nếu người vay tiền không bỏ trốn, vẫn liên hệ với người cho vay, cơ quan công an nơi cư trú, gia đình, người thân vẫn liên lạc được với người vay tiền đó thì chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự theo tội danh này.

    Cư trú là quyền tự do của công dân được Hiến pháp và Luật cư trú quy định. Nếu người vay tiền đi làm ăn xa; đi chữa bệnh; đi du lịch; đi thăm bà con; bị uy hiếp mà phải lánh đi để bảo toàn tính mạng... mà không phải là hành vi "bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản" thì không thể xử lý hình sự. Đi khỏi nơi cư trú là hành vi thông thường của việc hay đổi nơi cư trú, còn bỏ trốn là thay đổi nơi cư trú có mục đích, có lý do nhằm trốn tránh sự tìm kiếm của chủ nợ, nhằm làm cho chủ nợ không thể tố cáo, khởi kiện để đòi nợ... nhằm mục đích không trả nợ thì hành vi này mới nguy hiểm cho xã hội và mới bị xử lý hình sự theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

    3. Để áp dụng Điều 140 Bộ luật hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng phải có chứng cứ để chứng minh các điều kiện cần và điều kiện đủ khi một quan hệ pháp luật dân sự chuyển hóa thành quan hệ pháp luật hình sự (nguy hiểm cho xã hội sau đây:

    - NHẬN ĐƯỢC TÀI SẢN BẰNG MỘT QUAN HỆ DÂN SỰ HỢP PHÁP -> GIAN DỐI (đưa ra thông tin sai lệnh làm cho chủ sở hữu tài sản hiểu lầm là mình chưa giao tài sản hoặc đã nhận lại tài sản) + MỤC ĐÍCH: NHẰM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (không muốn trả lại tài sản);

    - NHẬN ĐƯỢC TÀI SẢN THÔNG QUA MỘT QUAN HỆ DÂN SỰ HỢP PHÁP -> BỎ TRỐN (đi khỏi nơi cư trú mà gia đình, người thân không biết hoặc che giấu; cơ quan quản lý về nhân khẩu không biết; bỏ đi có chủ định nhằm trốn tránh việc khiếu kiện, trốn tránh nghĩa vụ trả lại tài sản) + MỤC ĐÍCH CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN (Không trả lại tài sản vay, mượn, thuê... nữa);

    - NHẬN ĐƯỢC TÀI SẢN THÔNG QUA MỘT GIAO DỊCH DÂN SỰ HỢP PHÁP -> SỬ DỤNG TÀI SẢN ĐÓ VÀO CÁC MỤC ĐÍCH BẤT HỢP PHÁP (như đánh bạc, buôn lậu...) -> MẤT KHẢ NĂNG TRẢ LẠI TÀI SẢN (không thể bồi thường được nữa).

    Nếu xảy ra một trong ba trường hợp nêu trên (bao gồm tất cả các điều kiện cần, điều kiện đủ, thể hiện rõ mục đích chiếm đoạt, mất khả năng trả lại tài sản) thì mới có thể xử lý hình sự theo quy định tại Điều 140 BLHS. Còn nếu không thỏa mãn các dấu hiệu nêu trên thì vụ việc vẫn chỉ là quan hệ dân sự và sẽ được giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự.

  • Xem thêm     

    31/07/2015, 05:38:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định của Luật đất đai năm 2013, căn cứ vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất, nếu thửa đất của gia đình bạn thuộc một trong các trường hợp sau đây thì gia đình bạn được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:

    "Điều 100. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong Sổ đăng ký ruộng đất, Sổ địa chính trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa, nhà tình thương gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ thanh lý, hóa giá nhà ở gắn liền với đất ở; giấy tờ mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ về quyền sử dụng đất do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất;

    g) Các loại giấy tờ khác được xác lập trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 theo quy định của Chính phủ.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật và đất đó không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, văn bản công nhận kết quả hòa giải thành, quyết định giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp Giấy chứng nhận thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    5. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ; đất nông nghiệp quy định tại khoản 3 Điều 131 của Luật này và đất đó không có tranh chấp, được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

    Điều 101. Cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này, có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất."

  • Xem thêm     

    16/07/2015, 05:17:17 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn! 

    Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Với sự việc mất tài sản thì ban có quyền trình báo sự việc với công an để được xem xét giải quyết về trách nhiệm hình sự. Nếu qua quá trình kiểm tra, xác minh nguồn tin qua tin báo tố giác tội pham của bạn mà cơ quan công an có căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm thì sẽ khởi tố vụ án để điều tra. Nếu không có căn cứ xử lý hình sự thì công an sẽ trả lời bạn và bạn có quyền khiếu nại theo quy định pháp luật.

    2. Việc bồi thường thiệt hại dân sự do hai bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được mức bồi thường thì một trong hai bên có thể khởi kiện để tòa án giải quyết vụ án tranh chấp bồi thường thiệt hại theo thủ tục tố tụng dân sự. Cơ quan công an không có thẩm quyền giải quyết về bồi thường thiệt hại.

  • Xem thêm     

    16/07/2015, 05:08:30 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội trả lời bạn như sau:

    1. Nếu người nhà bạn gây tai nạn giao thông gây hậu quả nghiêm trọng (có lỗi) thì sẽ bị xử lý về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ theo quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự.

    Theo hướng dẫn tại Thông tư số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC   ngày 28 tháng 08 năm 2013 thì hậu quả sau đây được coi là nghiêm trọng và bị xử lý theo quy định tại Điều 202 BLHS:

    "Điều 3. Về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (Điều 202 Bộ luật hình sự)

    1. Hành vi vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại khoản 1 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quy tắc giao thông đường bộ và hành vi này phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả về tính mạng, sức khỏe và tài sản.

    Trường hợp phương tiện giao thông đường bộ di chuyển, hoạt động nhưng không tham gia giao thông đường bộ (như di chuyển, hoạt động trong trường học, công trường đang thi công hoặc đang khai thác) mà gây tai nạn thì người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự mà bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng khác nếu thỏa mãn dấu hiệu của tội phạm đó như tội vô ý làm chết người quy định tại Điều 98 Bộ luật hình sự, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính quy định tại Điều 99 Bộ luật hình sự hoặc tội vi phạm quy định về an toàn lao động, về an toàn ở những nơi đông người quy định tại Điều 227 Bộ luật hình sự.

    2. Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự được hiểu là một trong những trường hợp sau đây:

    a) Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy hoặc đang trong tình trạng say do sử dụng các chất mà sau khi sử dụng có biểu hiện say như người sử dụng ma túy, rượu, bia;

    b) Người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn;

    c) Người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.".

    "Một số tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt

    1. Gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác hoặc gây hậu quả nghiêm trọng quy định tại khoản 1 Điều 202 đến Điều 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220; khoản 2 các điều 206, 207, 216, 218, 219, 222, 223 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

    a) Làm chết một người;

    b) Gây tổn hại cho sức khỏe của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    c) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    d) Gây tổn hại cho sức khỏe của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;

    đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản với giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới bảy mươi triệu đồng;

    e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ bảy mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    2. Gây hậu quả rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 202 đến Điều 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220; khoản 3 các điều 206, 207, 216, 218, 219, 222, 223 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

    a) Làm chết hai người;

    b) Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

    c) Gây tổn hại cho sức khỏe của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    d) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này là từ trên 100% đến 200%;

    đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của một hoặc hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

    e) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

    3. Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 204; khoản 3 các điều 202, 203, 205, Điều 208 đến Điều 215, Điều 217, Điều 220, Điều 222, Điều 223; khoản 4 các điều 206, 207, 216, 218, 219 Bộ luật hình sự là một trong các trường hợp sau đây:

    a) Làm chết từ ba người trở lên;

    b) Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e khoản 1 Điều này;

    c) Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e khoản 2 Điều này;

    d) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    đ) Gây tổn hại cho sức khỏe của từ hai người trở lên với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

    e) Gây tổn hại cho sức khỏe của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;

    g) Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên.".

    Bộ luật hình sự quy định:

    "

    Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.
    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:
      a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;
      b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định hoặc có sử dụng các chất kích thích mạnh khác mà pháp luật cấm sử dụng;
      c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
      d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;
      đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.
    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.".

    2. Theo quy định tại Điều 105 Bộ luật tố tụng hình sự thì tội vi phạm quy định về giao thông đường bộ không thuộc nhóm tội khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại. Vì vậy, việc người bị hại có đơn bãi nại hay không không làm cho vụ án dừng lại. Nếu xác định vụ tai nạn đó gây hậu quả nghiêm trọng thì dù người bị hại có đơn thì cơ quan công an vẫn khởi tố vụ án, khởi tố bị can để xử lý theo quy định pháp luật với người có lỗi trong vụ tai nạn đó.

    3. Mức bồi thường thiệt hại trong vụ tai nạn giao thông đó do hai bên tự nguyện thỏa thuận. Việc thỏa thuận có thể cao hơn hoặc thấp hơn những thiệt hại thực tế đã gây ra. Tuy nhiên, 

  • Xem thêm     

    13/07/2015, 02:35:33 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu bạn còn sinh sống, cư trú tại Hà Nội thì bạn có thể nhập lại hộ khẩu về Hà Nội theo hộ khẩu của chồng bạn. Bạn cần xin giấy chuyển hộ khẩu, bản khai nhân khẩu, phiếu báo thay đổi hộ khẩu, sổ hộ khẩu của chồng bạn và giấy đăng ký kết hôn.

    Bạn liên hệ với công an phường để được hướng dẫn và cung cấp biểu mẫu cho bạn.

  • Xem thêm     

    13/07/2015, 02:22:26 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể liên hệ trực tiếp với cơ quan đó để được hướng dẫn thủ tục cụ thể.

  • Xem thêm     

    13/07/2015, 12:07:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu vụ việc mà không có sự nhầm lẫn nhưng người kia cố tình loan tin, bịa chuyện nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm của bạn thì bạn có quyền tố cáo để yêu cầu giải quyết và bồi thường thiệt hại danh dự cho bạn.

    Nếu vụ việc là do bên giao tiền nghĩ nhầm, hiểu nhầm và không có mục đích vu khống bạn thì vụ việc sẽ chỉ bị nhắc nhở...

    Với thông tin đã nêu ở trên thì bạn có quyền gửi đơn trình báo tới lãnh đạo công ty đó và cơ quan công an để yêu cầu dừng hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm uy tín của bạn và xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường danh dự với bạn.

344 Trang «<33343536373839>»