Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    28/09/2013, 09:47:38 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Tại mục 3, Nghị quyết số 35/2000/NQ- QH10 của Quốc hội ngày 09/6/2000 về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình quy định:

    "Việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 11 của Luật này được thực hiện như sau:

    a) Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987, ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích đăng ký kết hôn; trong trường hợp có yêu cầu ly hôn thì được Toà án thụ lý giải quyết theo quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

     

    b) Nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng từ ngày 03 tháng 01 năm 1987 đến ngày 01 tháng 01 năm 2001, mà có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực cho đến ngày 01 tháng 01 năm 2003; trong thời hạn này mà họ không đăng ký kết hôn, nhưng có yêu cầu ly hôn thì Toà án áp dụng các quy định về ly hôn của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

     

    Từ sau ngày 01 tháng 01 năm 2003 mà họ không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng;

     

    c) Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.".

    Do vậy, nếu quan hệ hôn nhân của bố mẹ bạn được xác lập trước ngày 03/01/1987 thì mới được công nhận là quan hệ vợ chồng và tài sản mới được chia theo luật hôn nhân và gia đình: Nguyên tắc suy luận là tài sản hình thành trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung, nếu một bên cho rằng đó là tài sản riêng thì phải có nghĩa vụ chứng minh.

    Nếu quan hệ hôn nhân của cha mẹ bạn không được pháp luật thừa nhận là hôn nhân thực tế thì tài sản đứng tên ai thuộc về người đó. Người nào cho rằng mình có phần trong tài sản đứng tên người khác thì người đó phải chứng minh. Người không đứng tên tài sản thì chỉ được trích phần công sức của mình trong khối tài sản của người khác.

     

     

  • Xem thêm     

    28/09/2013, 07:32:34 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu có chữ ký mà không thừa nhận thì có thể yêu cầu Tòa án trưng cầu giám định chữ ký. Với người không ký và khai là không biết giao dịch đó thì gia đình bạn phải chứng minh trên cơ sở các chứng cứ khác...

  • Xem thêm     

    28/09/2013, 07:29:15 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Bạn tham khảo nội dung tư vấn trên.

  • Xem thêm     

    28/09/2013, 07:27:48 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn đó đã ly hôn rồi nên không thể làm thủ tục ly hôn lần 2 với cùng một người chồng đó. Chỉ cần liên hệ với Tòa án HQ để xin bản án, quyết định cho ly hôn đó để mang về thi hành tại VN.

  • Xem thêm     

    28/09/2013, 07:25:37 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Nếu diện tích đất khai hoang của gia đình bạn sử dụng ổn định, không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai, cụ thể như sau:

    "Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

    "

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:48:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Gia đình bạn có thể liên hệ với UBND cấp xã để thực hiện thủ tục kê khai xin cấp GCN QSD đất. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính còn phụ thuộc vào nguồn gốc đất và quy định cụ thể của địa phương. Bạn có thể tham khảo thêm quy định tại Điều 50 Luật đất đai để biết thêm về các trường hợp được cấp GCN QSD đất.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:45:01 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu bản án dân sự đó đã được chuyển về VN để thi hành thì mới thực hiện được thủ tục ở VN. Nếu bản án đó chưa thực hiện thủ tục cho thi hành bản án của Tòa án nước ngoài tại VN thì bạn đó chỉ còn cách là liên hệ với Luật sư Việt Nam tại HQ để được trợ giúp pháp lý.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:42:14 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Nếu vụ việc chỉ dừng lại ở tranh chấp dân sự thì sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì bạn gửi đơn sang cơ quan thi hành án để cưỡng chế thi hành. Nếu công ty không có tài sản hoặc tài sản chưa đủ thi hành án thì bạn mới phải chờ đợi thi hành án như nội dung mà lãnh đạo công ty nói ở trên...

    - Nếu những sai phạm của công ty khiến lãnh đạo công ty bị xử lý về hình sự thì cơ hội đòi lại tiền của bạn sẽ nhanh hơn;

    - Ngoài ra, công ty vi phạm hợp đồng thì ngoài số tiền phải trả, công ty còn có thể phải bồi thường thiệt hại cho bạn...

    Do vậy, bạn cần cân nhắc khi tiến hành hòa giải giữa hai bên.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:26:37 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã có văn bản bản giải quyết khiếu nại, tố cáo mà UBND thị xã Sơn Tây không chấp hành thì gia đình bạn có thể gửi đơn tới Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội để yêu cầu giải quyết và xử lý các "cán bộ cứng đầu".

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:04:43 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu người đó vi phạm luật giao thông gây thiệt hại đến sức khỏe, tài sản của bạn thì người đó phải bồi thường thiệt hại. Nếu gây hậu quả nghiêm trọng thì họ phải chịu trách nhiệm hình sự.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 10:02:12 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Bạn gái đó cần liên hệ với cơ quan đã thực hiện thủ tục ly hôn để xin giấy tờ ly hôn làm căn cứ để kết hôn lần 2.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 08:22:12 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Nếu không còn giải pháp nào để thương lượng thì bạn có thể báo công an để được giải quyết.

  • Xem thêm     

    27/09/2013, 05:01:55 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Thông thường đối với các giao dịch về bất động sản mà chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà thì có thể thực hiện thông qua hợp đồng đặt cọc (hứa mua, hứa bán). Ngoài ra cần làm thêm một văn bản ủy quyền và di chúc của bên bán.

    - Đối với các văn bản trên thì sẽ đảm bảo được quyền lợi của người mua khi giá cả thay đổi. Người mua nhà đất có thể đặt cọc bằng toàn bộ giá trị mua bán. Nếu đến thời điểm bất động sản được cấp GCN mà bên bán không đồng ý bán nữa thì bên mua có quyền phạt cọc. Hợp đồng này sẽ không bị vô hiệu như hợp đồng mua bán, chuyển nhượng viết tay;

    - Hợp đồng ủy quyền sẽ là căn cứ để người mua nhận, sử dụng nhà đất, hưởng hoa lợi, lợi tức phát sinh trong thời gian chưa sang tên; HĐ ủy quyền cũng là căn cứ để người mua xin cấp GCN, nhận GCN khi được cấp...

    - Di chúc sẽ phát sinh hiệu lực nếu bên bán nhà đất chết mà không kịp sang tên....

    Đối với các giao dịch về nhà đất mà chưa thể công chứng hợp đồng, chưa thể sang tên thì giải pháp an toàn nhất là tìm luật sư để soạn các loại hợp đồng trên là làm chứng cho giao dịch đó.

  • Xem thêm     

    25/09/2013, 11:32:54 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!


    - Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ có quy định về "phá sản doanh nghiệp", khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản (mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn...) thì có quy trình, thủ tục để "báo tử" doanh nghiệp đó là thủ tục phá sản. Còn đối với cá nhân thì không có quy định về "vỡ nợ", "phá sản".

    - Các giao dịch mà bạn trình bày ở trên đều là quan hệ dân sự. Nếu bạn không có khả năng trả nợ thì có thể gửi thông báo cho các chủ nợ để xin khất nợ, giãn nợ, khoan nợ, miễn nợ...

    - Nếu họ không đồng ý với đề xuất của bạn thì họ sẽ tố cáo bạn tới công an hoặc khởi kiện bạn tới Tòa án để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Nếu bạn vay tiền sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến mất khả năng trả nợ hoặc bạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt số tiền vay thì bạn mới bị xử lý hình sự. Nếu không có dấu hiệu tội phạm thì đó là quan hệ dân sự và vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.

    - Với việc vay lãi suất cao của tín dụng đen thì pháp luật không bảo vệ người cho vay. Nếu việc vay mượn đó được đưa ra pháp luật thì bạn chỉ phải trả tiền gốc và lãi suất không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng công bố. Với số tiền lãi cao mà bạn đã trả sẽ được trừ vào tiền nợ gốc. Nếu người cho vay đánh đập, uy hiếp bạn để đòi tiền thì bạn có thể trình báo công an để xử lý theo pháp luật.

  • Xem thêm     

    25/09/2013, 11:20:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

               Nếu em bạn đang tham gia một quan hệ pháp luật lao động: Là người lao động, làm việc và được trả lương theo hợp đồng lao động, quyết định bổ nhiệm, tuyển dụng... thiệt hại tính mạng của em bạn gắn liền với nhiệm vụ, công việc được giao thì sự việc đó có thể được coi là tai nạn nao động.

           Tai nạn lao động được định nghĩa tại điểm 2.1 của Thông tư liên tịch số 14/2005/TTLT-BLĐTBXH-BYT-TLĐLĐVN của Liên tịch Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Cụ thể:

    a. Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động (kể cả thời gian giải quyết các nhu cầu cần thiết trong thời gian làm việc theo Bộ Luật Lao động quy định như: nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, thời gian chuẩn bị và kết thúc công việc).

    b. Tai nạn được coi là tai nạn lao động trong các trường hợp sau:

    - Tai nạn xảy ra trên tuyến đường đi và về trực tiếp giữa nơi làm việc và:

    + Nơi thường trú hoặc nơi tạm trú của người lao động.

    + Nơi người lao động đến nhận tiền lương, tiền công.

    - Tai nạn xảy do những nguyên nhân khách quan như: thiên tai, hoả hoạn và các trường hợp rủi ro khác gắn liền với việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ lao động hoặc không xác định được người gây ra tai nạn xảy ra tại nơi làm việc.

    Tất cả những trường hợp trên phải được thực hiện ở địa điểm và thời gian hợp lý.

    c. Tai nạn lao động được chia thành 3 loại:

    + Tai nạn lao động chết người: là tai nạn lao động dẫn đến chết người (chết ngay tại nơi xảy ra tai nạn; chết trên đường đi cấp cứu; chết trong thời gian cấp cứu; chết trong thời gian đang điều trị; chết do tái phát của chính vết thương do tai nạn lao động gây ra, …).

    + Tai nạn lao động nặng: người bị tai nạn bị ít nhất một trong những chấn thương được quy định tại Phụ lục số 1 kèm theo Thông tư này.

    + Tai nạn lao động nhẹ: là những tai nạn lao động không thuộc 2 loại tai nạn lao động nói trên.

  • Xem thêm     

    25/09/2013, 11:14:48 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Theo quy định pháp luật thì bạn đó có nghĩa vụ bồi thường cho bạn với số tiền tương đương với giá trị chiếc điện thoại đó. Nếu người đó không bồi thường cho bạn thì bạn có thể khởi kiện đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, số tiền không lớn và giao dịch đều bằng lời nói nên thực tế hiện nay tại VN Tòa án thường "không muốn thụ lý" giải quyết những vụ án như vậy. Bạn sẽ rất khó để Tòa án thụ lý vụ việc tranh chấp dân sự đó;

    - Nếu người mượn điện thoại của bạn không phải làm mất mà là gian dối để chiếm đoạt tài sản đó của bạn thì họ sẽ phạm tội lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Do vậy, nếu hai bên không thương lượng được thì bạn có thể gửi đơn trình báo tới công an để được giải quyết. Khi công an gọi người đó tới để làm việc thì cơ hội đòi tiền của bạn sẽ cao hơn...

  • Xem thêm     

    24/09/2013, 11:47:56 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Nếu người đó nói là mượn xe của bạn để sử dụng nhưng lại mang đi cầm cố làm mất khả năng lấy lại chiếc xe đó... (dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bạn) thì sẽ bị xử lý về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS.

    - Nếu ban đầu việc mượn, sử dụng xe là đúng, bị công an giữ xe là đúng sự thật. Sau đó họ mượn tiếp xe của bạn để mang đi cầm cố và bạn cũng đồng ý thì đó chỉ là giao dịch dân sự. Trong trường hợp này nếu người đó "gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản" của bạn thì mới phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự.

    - Để giải quyết vụ việc đó thì bạn có thể gửi đơn tố giác tội phạm tới công an nơi mà bạn đã giao xe cho người đó để được giải quyết theo pháp luật. Trong đơn cần trình bày rõ nội dung, tình tiết của sự việc để cơ quan điều tra xem xét, giải quyết.

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 11:13:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu thửa đất đó của gia đình bạn nằm trong khu vực quy hoạch là khu dân cư thì được phép chuyển mục đích từ đất nông nghiệp sang đất thổ cư, tuy nhiên gia đình bạn phải nộp 100% tiền sử dụng đất theo đơn giá đất thổ cư tại địa phương.

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 04:07:55 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu cháu bạn lạng lách, đánh võng, làm "động tác giả" khiến người đi ngược chiều "chóng mặt" mà đâm phải cháu bạn thì cháu bạn là người có lỗi chính... Việc xác định lỗi chính, lỗi phụ còn căn cứ vào điểm va chạm, tư thế ngã, dấu vết vật chứng và sơ đồ hiện trường...

  • Xem thêm     

    23/09/2013, 04:03:26 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    - Theo quy định pháp luật thì tài sản "chung vợ chồng" là tài sản chung của vợ + của chồng. Nếu ly hôn thì những tài sản được xác định là "tài sản chung" theo quy định tại Điều 27  Luật hôn nhân và gia đình thì được "chia đôi" cho vợ và cho chồng. Nếu tài sản "chung của hộ gia đình" thì mới chia cho các thành viên trong hộ.

    - Nếu nhà đất vẫn đứng tên ông bà nội bạn thì nhà đất đó là tài sản hợp pháp của ông bà nội. Khi bán, chuyển nhượng không cần có chữ ký của bố, mẹ bạn;

    - Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng: Nếu bố bạn không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì mẹ bạn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành bản án đó để buộc bố bạn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng...