Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

  • Xem thêm     

    18/10/2013, 07:37:30 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu ngôi nhà bạn đang ở là tài sản chung vợ chồng chưa chia và vợ chồng bạn không bạn không thống nhất được việc phân chia tài sản chung vợ chồng thì bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia theo pháp luật. Tòa án sẽ áp dụng các quy định sau đây của Luật hôn nhân và gia đình để chia tài sản của vợ chồng bạn:

    "

    Điều 95. Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn

    1. Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    2. Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:

    a) Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    b) Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

    c) Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;

    d) Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.

    3. Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết

    Điều 96. Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn

    1. Trong trường hợp vợ, chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

    2. Trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.

    Điều 98. Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng

    Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng có thể chia để sử dụng thì khi ly hôn được chia theo quy định tại Điều 95 của Luật này; nếu không thể chia được thì bên được tiếp tục sử dụng nhà ở phải thanh toán cho bên kia phần giá trị mà họ được hưởng.".

  • Xem thêm     

    16/10/2013, 10:14:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc của gia đình bạn cần xem lại căn cứ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bạn là gì (nhận chuyển quyền sử dụng đất; được nhà nước giao đất hay nhà nước công nhận quyền sử dụng đất?) Nếu có một trong 3 căn cứ trên thì bạn mới thắng kiện.

    Nếu thửa đất đó không được Nhà nước giao cho bạn; Bạn không đủ điều kiện để được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất; Bạn cũng không nhận chuyển quyền sử dụng đất một cách hợp pháp thì bạn sẽ thua kiện và ngược lại.

  • Xem thêm     

    16/10/2013, 10:06:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật tố cáo số 03/2011/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2012 đã thay thế Luật khiếu nại, tố cáo 1998, sửa đổi bổ sung năm 2004 và 2005.

    Theo quy định của Luật tố cáo mới thì không quy định thời hiệu tố cáo. Bất cứ khi nào người dân phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật đều có quyền gửi đơn thư tới người có thẩm quyền để giải quyết theo luật tố cáo. Thủ tục và thời hạn giải quyết tố cáo được quy định như sau:

    "Điều 18. Trình tự giải quyết tố cáo

    Việc giải quyết tố cáo được thực hiện theo trình tự sau đây:

    1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;

    2. Xác minh nội dung tố cáo;

    3. Kết luận nội dung tố cáo;

    4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;

    5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo.

    Điều 19. Hình thức tố cáo

    1. Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn tố cáo hoặc tố cáo trực tiếp.

    2. Trường hợp tố cáo được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ, tên, địa chỉ của người tố cáo; nội dung tố cáo. Đơn tố cáo phải do người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ. Trường hợp nhiều người cùng tố cáo bằng đơn thì trong đơn phải ghi rõ họ, tên, địa chỉ của từng người tố cáo, có chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tố cáo; họ, tên người đại diện cho những người tố cáo để phối hợp khi có yêu cầu của người giải quyết tố cáo.

    3. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo viết đơn tố cáo hoặc người tiếp nhận ghi lại việc tố cáo bằng văn bản và yêu cầu người tố cáo ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản, trong đó ghi rõ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều này. Trường hợp nhiều người đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận hướng dẫn người tố cáo cử đại diện để trình bày nội dung tố cáo.

    Điều 20. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo

    1. Khi nhận được tố cáo thì người giải quyết tố cáo có trách nhiệm phân loại và xử lý như sau:

    a) Nếu tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, phải kiểm tra, xác minh họ, tên, địa chỉ của người tố cáo và quyết định việc thụ lý hoặc không thụ lý giải quyết tố cáo, đồng thời thông báo cho người tố cáo biết lý do việc không thụ lý, nếu có yêu cầu; trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn kiểm tra, xác minh có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày;

    b) Nếu tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình thì trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn tố cáo, người tiếp nhận phải chuyển đơn tố cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết và thông báo cho người tố cáo, nếu có yêu cầu. Trường hợp người tố cáo đến tố cáo trực tiếp thì người tiếp nhận tố cáo hướng dẫn người tố cáo đến tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết.

    2. Người có thẩm quyền không thụ lý giải quyết tố cáo trong các trường hợp sau đây:

    a) Tố cáo về vụ việc đã được người đó giải quyết mà người tố cáo không cung cấp thông tin, tình tiết mới;

    b) Tố cáo về vụ việc mà nội dung và những thông tin người tố cáo cung cấp không có cơ sở để xác định người vi phạm, hành vi vi phạm pháp luật;

    c) Tố cáo về vụ việc mà người có thẩm quyền giải quyết tố cáo không đủ điều kiện để kiểm tra, xác minh hành vi vi phạm pháp luật, người vi phạm.

    3. Trong quá trình tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo, nếu xét thấy hành vi bị tố cáo có dấu hiệu tội phạm thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo có trách nhiệm chuyển hồ sơ, tài liệu và những thông tin về vụ việc tố cáo đó cho cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật.

    4. Trường hợp hành vi bị tố cáo gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, của tập thể, tính mạng, tài sản của công dân thì cơ quan, tổ chức nhận được tố cáo phải áp dụng biện pháp cần thiết theo thẩm quyền hoặc báo ngay cho cơ quan công an, cơ quan khác có trách nhiệm ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm.

    Điều 21. Thời hạn giải quyết tố cáo

    1. Thời hạn giải quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo.

    2. Trường hợp cần thiết, người có thẩm quyền giải quyết tố cáo có thể gia hạn giải quyết một lần nhưng không quá 30 ngày; đối với vụ việc phức tạp thì không quá 60 ngày."

  • Xem thêm     

    16/10/2013, 09:54:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật đất đai quy định:

    "Điều 105. Quyền chung của người sử dụng đất

    Người sử dụng đất có các quyền chung sau đây:

    1. Được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    2. Hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất;

    3. Hưởng các lợi ích do công trình của Nhà nước về bảo vệ, cải tạo đất nông nghiệp;

    4. Được Nhà nước hướng dẫn và giúp đỡ trong việc cải tạo, bồi bổ đất nông nghiệp;

    5. Được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử dụng đất hợp pháp của mình;

    6. Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử dụng đất hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai."

      Bộ luật dân sự quy định:
    "Ðiều 256. Quyền đòi lại tài sản

    Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền yêu cầu người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đối với tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền chiếm hữu hợp pháp của mình phải trả lại tài sản đó, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Ðiều 247 của Bộ luật này. Trong trường hợp tài sản đang thuộc sự chiếm hữu của người chiếm hữu ngay tình thì áp dụng Ðiều 257 và Ðiều 258 của Bộ luật này.

    Ðiều 258. Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.".

               Do vậy, ông A có thể căn cứ vào các quy định pháp luật trên để đòi lại quyền sử dụng đất của mình.

               Ông A chỉ có thể bị thua kiện nếu trước đó đã có quyết định của UBND cấp huyện thu hồi thửa đất đó của ông A do bỏ hoang không sử dụng hoặc hủy bỏ GCN QSD đất của ông A do cấp sai.

  • Xem thêm     

    16/10/2013, 09:32:08 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn nêu thì việc chuyển nhượng đã hoàn tất? Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp GCN QSD đất, tuy nhiên diện tích đất không đủ so với thỏa thuận bạn đầu?

    Nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ buộc gia đình bạn phải hoàn lại một phần tiền so với giá cả thỏa thuận ban đầu tương ứng với diện tích đất bị thiếu.

  • Xem thêm     

    16/10/2013, 08:51:00 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào cháu!

    Theo bản án có hiệu lực pháp luật thì mẹ cháu là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu. Vì vậy, cháu có quyền sống cùng mẹ cháu. Nếu việc nuôi dạy, chăm sóc của cha cháu không khoa học ảnh hưởng đến sự phát triển của cháu thì cháu có thể báo với mẹ cháu để mẹ cháu đón về nuôi. Nếu có tranh chấp thì cháu và mẹ cháu có thể gửi đơn tới cơ quan thi hành án để được can thiệp kịp thời.

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 09:35:19 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Giao đất giãn dân là một chính sách chỉ áp dụng với đối tượng tách hộ, có nhu cầu sử dụng đất. Nếu thời điểm đó chỉ có cô bạn mới đủ điều kiện được giao đất giãn dân thì thửa đất đó thuộc về cô bạn. Việc bố bạn trả tiền cho cô bạn thì coi như một khoản nợ.

    Việc cô bạn và gia đình bạn đổi đất không theo thủ tục pháp luật quy định nên không có giá trị pháp lý. Trong sự việc trên, UBND huyện thu hồi đất của gia đình bạn do cấp sai đối tượng là có căn cứ. Gia đình bạn nên thương lượng với cô bạn để hòa giải thì mới có kết quả tốt nhất.

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 09:16:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Gia đình bạn kê khai, nộp thuế diện tích nào thì được cấp GCN QSD đất đối với diện tích đó. Đối với diện tích đất không kê khai, không nộp thuế nhưng gia đình bạn vẫn quản lý, sử dụng thì vẫn có thể được xem xét cấp GCN QSD đất nếu phần diện tích đất đó không có tranh chấp và phù hợp với quy hoạch. Với diện tích đất không kê khai thì có thể gia đình bạn phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định pháp luật. Bạn có thể tham khảo quy định tại Điều 18, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP để biết thêm quy định trong trường hợp của gia đình bạn:

    "Điều 18. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp có sự chênh lệch giữa số liệu diện tích đo đạc thực tế với số liệu diện tích đã ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Trường hợp số liệu đo đạc thực tế theo đúng quy phạm kỹ thuật về đo đạc địa chính mà diện tích thửa đất nhỏ hơn diện tích đã ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì Giấy chứng nhận được cấp theo số liệu diện tích đo đạc thực tế; người sử dụng đất không được truy nhận số tiền sử dụng đất đã nộp (nếu có) đối với phần diện tích ít hơn so với diện tích đất ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất.

    2. Trường hợp số liệu đo đạc thực tế theo đúng quy phạm kỹ thuật về đo đạc địa chính mà diện tích thửa đất lớn hơn diện tích đã ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì giải quyết theo quy định sau:

    a) Trường hợp ranh giới thửa đất hiện nay không thay đổi so với thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất, không có tranh chấp với những người sử dụng đất liền kề mà diện tích đo đạc thực tế khi cấp Giấy chứng nhận nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất thì Giấy chứng nhận được cấp theo diện tích đo đạc thực tế; người sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất đối với phần diện tích nhiều hơn so với diện tích đất ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất;

    b) Trường hợp ranh giới thửa đất hiện nay có thay đổi so với thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận diện tích nhiều hơn là do khai hoang hoặc nhận chuyển quyền của người sử dụng đất trước đó, đất đã được sử dụng ổn định và không có tranh chấp thì Giấy chứng nhận được cấp cho toàn bộ diện tích đo đạc thực tế của thửa đất và thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với phần diện tích chênh lệch theo quy định của pháp luật về đất đai;

    c) Trường hợp ranh giới thửa đất hiện nay có thay đổi so với thời điểm có giấy tờ về quyền sử dụng đất mà diện tích đất đo đạc thực tế nhiều hơn diện tích ghi trên giấy tờ về quyền sử dụng đất nay được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận diện tích nhiều hơn ".

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 08:48:41 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nội dung bạn hỏi được Pháp lệnh án phí, lệ phí tòa án 2009 quy định như sau:

    Mức án phí sơ thẩm đối với các vụ án về tranh chấp dân sự có giá ngạch:

     

    Giá trị tài sản có tranh chấp

    Mức án phí

    a) Từ 4.000.000 đồng trở xuống

    200.000 đồng

    b) Từ trên 4.000.000 đồng đến 400.000.000 đồng

    5% giá trị tài sản có tranh chấp

    c) Từ trên 400.000.000 đồng đến 800.000.000 đồng

    20.000.000 đồng + 4% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 400.000.000 đồng

    d) Từ trên 800.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng

    36.000.000 đồng + 3% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 800.000.000 đồng

    đ) Từ trên 2.000.000.000 đồng đến 4.000.000.000 đồng

    72.000.000 đồng + 2% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 2.000.000.000 đồng

    e) Từ trên 4.000.000.000 đồng

    112.000.000 đồng + 0,1% của phần giá trị tài sản có tranh chấp vượt quá 4.000.000.000 đồng.

     

     

    Số tiền tạm ứng án phí sẽ là 50% số tiền án phí phải nộp. Trừ trường hợp bạn thuộc trường hợp được miễn, giảm tiền tạm ứng án phí theo quy định của Pháp lệnh này. Bạn cần xem lại số tiền bạn cho vay là 50 đồng hay 50 triệu đồng?

     

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 07:58:38 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Tất cả các nội dung bạn trình bày là xã nói như vậy đều không đúng pháp luật. Anh em, vợ chồng, cha con... cũng không thể thay thế nhau trong hợp đồng được nếu họ đã trưởng thành và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

     - Theo quy định của luật đất đai thì: UBND cấp xã chỉ có thẩm quyền hòa giải tranh chấp đất đai chứ không có quyền giải quyết tranh chấp nên mọi quyết định của UBND xã trong việc giải quyết tranh chấp đất đai đều không có giá trị pháp lý.

    - Nếu đất đai chưa có GCN QSD đất, không có giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai nhưng có tranh chấp về tài sản trên đất (cây trồng, công trình kiến trúc, nhà cửa không phân biệt nhà cấp mấy..) thì thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai.

    - Người tự ý xây dựng trên đất của bạn chỉ được nhận tiền tương đương với giá trị tài sản mà tòa án định giá đối với công trình xây dựng đó. Kết quả định giá thường thấp hơn giá thị trường....

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 07:43:06 SA | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Luật Bảo hiểm xã hội và các văn bản quy định hiện hành, quy định: Hạ sĩ quan, binh sĩ phục vụ có thời hạn trong quân đội từ ngày 01/01/2007 trở đi, được tính là thời gian tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc để hưởng 3 chế độ bảo hiểm xã hội đó là: Tai nạn lao đông, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Khi hết thời gian phục vụ trong quân đội được nhận trợ cấp một lần từ quỹ bảo hiểm xã hội. Trường hợp không nhận trợ cấp một lần thì được cấp sổ bảo hiểm xã hội và bảo lưu thời gian đóng bảo hiểm xã hội để tiếp tục tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc hoặc tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Nếu bạn tham gia nghĩa vụ quân sự trước thời điểm trên thì không được áp dụng quy định này.

  • Xem thêm     

    15/10/2013, 07:35:36 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu bản án, quyết định của Tòa án bị tòa cấp trên hủy để giải quyết lại hoặc hủy bỏ để đình chỉ giải quyết vụ án mà do lỗi cố ý của thẩm phán thì vụ việc không chỉ ở thành tích, trách nhiệm nghề nghiệp mà thẩm phán đó cũng có thể bị xử lý hình sự (nếu đủ yếu tố cấu thành tội phạm) theo quy định tại: Chương XXII Bộ luật hình sự - Các tội xâm phạm hoạt động tư pháp.

     

  • Xem thêm     

    14/10/2013, 10:33:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Nếu đất của gia đình bạn đã được cấp GCN QSD đất thì loại đất căn cứ vào nội dung ghi trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nếu chưa cấp GCN QSD đất thì xác định loại đất căn cứ vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất thể hiện trong hồ sơ địa chính.

    - Nếu thửa đất của gia đình bạn sử dụng sau 15.10.1993 thì chỉ được bồi thường loại đất ở trong hạn mức do UBND tỉnh quy định, phần ngoài hạn mức được xác định là đất vườn liền kề.

    - Xác định vị trí thửa đất sẽ căn cứ vào quy định của UBND tỉnh ban hành kèm theo đơn giá đất hàng năm.

    - Thẩm quyền thu hồi đất thuộc về UBND cấp huyện. Trước khi thu hồi đất thì UBND huyện sẽ lập phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để gửi đến người sử dụng đất để lấy ý kiến. Nếu không đồng ý với mức, đơn giá bồi thường thì gia đình bạn có quyền kiến nghị, khiếu nại theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/10/2013, 04:13:56 CH | Trong chuyên mục Hợp đồng

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Bạn lưu ý là giấy tờ của gia đình bạn là "tặng cho" trên giấy chứ không phải là "chuyển nhượng" nên giao dịch đó không có giá trị pháp lý. Thực tế việc tặng cho đó chưa thực hiện thủ tục đăng ký, cũng chưa bàn giao nhà đất nên không có giá trị pháp lý.

    - Bạn căn cứ vào đâu lại cho rằng việc tặng cho quyền sử dụng đất năm 1985 không cần phải thực hiện thủ tục sang tên vẫn có hiệu lực?

    - Luật đất đai đầu tiên của nước ta ban hành năm 1987, chưa tính luật cải cách ruộng đất 1953. Tuy nhiên trước đó Nhà nước cũng có nhiều văn bản dạng Nghị định, Sắc lệnh, Chỉ thị, Thông tư, Thông tri... để quản lý đất đai (như: Quyết định số 201, Thông tư 383/BXD, Thông tư 81,Nghị định số 51-TTg ngày 14-4-1959; Nghị định số 47-CP ngày 15-3-1972;  Chỉ thị 231-TTg ngày 24-9-1974; Quyết định số: 201-CP ngày 1-7-1980 ...), trong đó đều quy định: Việc chuyển quyền sử dụng đất phải có chứng thực và phải đăng bộ theo qu định.

    Tại tiểu mục 9, phần II, Thông tư số 55/ĐKTK ngày 05/11/1981 của Tổng cục quản lý ruộng đất quy định:

    "Mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất trái phép

    Nói chung, tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất hoặc đất của Hợp tác xã chia cấp không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép và tất cả các việc chuyển nhượng, mua bán đất trước đây thuộc sở hữu tư nhân không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thị thực đêù là trái phép. Riêng đối với các tỉnh phía Nam, kể từ sau ngày 5-3-1975 ban hành Nghị định số 01-ND/75 của Chính phủ miền Nam Việt Nam, tất cả mọi việc mua, bán, chuyển nhượng ruộng đất giữa các tư nhân với nhau, dù là có được chính quyền địa phương thị thực, đều là trái phép. Xử lý các trường hợp này như sau:

    --Đối với đất trước thuộc sở hữu tư nhân , hai bên mua bán trả lại cho nhau , nhười có đất lấy lại đất , người có tiền lấy lại tiền . Trường hợp người có đất không thể trực tiếp sử dụng đất hoặc không có người thừa kế sử dụng thì phải giao lại đất cho nhà nước để phân phối sử dụng theo qui định của quyết định số 201 -CP ngày 1-7-1960

    - Đối với đất công, Nhà nước thu hồi đất của người mua và người bán phải trả lại tiền cho người mua.

    - Nếu người mua đất thực sự không có đất để ở hoặc không có đất để làm ăn sinh sống, thì có thể cho họ tiếp tục sử dụng (nếu Nhà nước thu hồi đất của người bán) và Uỷ ban nhân dân huyện quyết định giao cho họ đất đang sử dụng. "

            Đến nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định là việc tặng cho quyền sử dụng đất không cần phải đăng ký, sang tên mà vẫn có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, pháp luật còn quy định từ thời điểm năm 1980 -1993 cấm chuyển nhượng, tặng cho quyền sử dụng đất.

  • Xem thêm     

    13/10/2013, 03:10:12 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo thông tin thì hợp đồng chuyển nhượng của bạn đã được công chứng, sang tên nên có hiệu lực pháp luật bắt buộc các bên phải thực hiện.

    Nếu hai bên có thỏa thuận chỉ chuyển nhượng một phần thửa đất đó, tuy nhiên việc thỏa thuận không có công chứng, chứng thực, không thực hiện thủ tục tách thửa đất nên pháp luật không thừa nhận. Các bên không phải thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận đó.

    Nếu bạn cần có luật sư tham gia vụ tranh chấp đó để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của gia đình bạn thì bạn có thể liên hệ trực tiếp với luật sư đồng thời cung cấp thêm thông tin tài liệu để luật sư đánh giá và thông báo mức thù lao, chi phí cụ thể.

  • Xem thêm     

    13/10/2013, 09:48:32 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu bị xử vào khoản 1, Điều 104 BLHS thì có CƠ HỘI được hưởng án treo nhưng không phải trường hợp nào cũng được hưởng án treo. Bạn tham khảo quy định sau đây:

    Tại Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn: "chỉ cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

      1.  Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì.

      Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù, thì cũng có thể cho hưởng án treo.

      2.  Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng.

      3.  Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng, thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên.

      4.  Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm."

  • Xem thêm     

    13/10/2013, 09:42:40 SA | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Tỷ lệ thương tật căn cứ vào kết luận giám định của cơ quan chuyên môn (hội đồng giám định y khoa..). Việc thương lượng bồi thường thiệt hại do hai bên tự nguyện thực hiện. Nếu đe dọa, uy hiếp để buộc người khác phải giao tiền là hành vi phạm pháp.

  • Xem thêm     

    13/10/2013, 09:39:28 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Vụ việc đã được Tòa án thụ lý giải quyết thì bạn phải chờ đợi kết quả giải quyết. Nếu bạn tự ý phá bức tường đó thì bạn sẽ bị xử lý về tội cố ý hủy hoại tài sản theo quy định tại Điều 143 Bộ luật hình sự.

    Vụ việc của gia đình bạn không có yếu tố nước ngoài nên thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án cấp huyện. Nếu vụ án phức tạp thì Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết. Nếu bạn không tin tưởng vào Tòa án thì có thể nhờ luật sư tham gia vụ án đó để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bạn.

  • Xem thêm     

    12/10/2013, 11:04:41 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

              Gây thương tích trong tình trạng tinh thần bị kích động MẠNH là một tội danh quy định tại Điều 105 Bộ luật hình sự và chỉ bị khởi tố khi tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31% trở lên. Nếu thương tích gây ra xuất phát từ hành vi vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng thì cũng có thể phạm tội theo quy định tại Điều 106 Bộ luật hình sự. Nếu không được áp dụng một trong hai tội danh này thì có thể viện dẫn tình tiết giảm nhẹ là do lỗi một phần của nạn nhân... Bạn tham khảo quy định sau đây của Bộ luật hình sự:

    "Điều 105. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến hai năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm :

    a) Đối với nhiều người;

    b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác.

    Điều 106. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên hoặc dẫn đến chết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

    2. Phạm tội đối với nhiều người thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm."

  • Xem thêm     

    12/10/2013, 10:49:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    - Nếu thửa đất đó không được phép chuyển nhượng hoặc người nhận tiền của bạn không có quyền chuyển nhượng. Nhưng người đó đưa ra thông tin gian dối để bạn giao tiền cho họ, sau đó không giao đất, cũng không trả lại tiền cho bạn thì vụ việc đó có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bạn có thể làm đơn trình báo sự việc tới công an để được xem xét, giải quyết theo quy định pháp luật.'

    - Nếu người chuyển nhượng cho bạn có đất thật, có quyền tham gia giao dịch đó... việc chậm thực hiện hợp đồng là nguyên nhân khách quan thì vụ việc là quan hệ dân sự,. Bạn có thể gửi đơn tới Tòa án để nơi có thửa đất đó để được giải quyết vụ án tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Tòa án sẽ đảm bảo quyền lợi của bạn theo pháp luật: Lấy lại tiền hoặc nhận đất.