Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

129 Trang «<72737475767778>»
  • Xem thêm     

    13/10/2012, 08:37:53 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Theo quy định pháp luật thì cơ quan cấp GCN QSD đất có quyền sửa đổi, bổ sung, đính chính, thu hồi GCN QSD đất đã cấp nếu có căn cứ cho rằng việc cấp GCN QSD đất đó là trái pháp luật. Việc sửa đổi, thu hồi, hủy bỏ GCN QSD đất phải thực hiện thông qua quy trình thanh tra, kiểm tra và phải ra Quyết định hành chính. Người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính đó hoặc khởi kiện theo quy định của Luật đất đai, Luật khiếu nại và Luật tố tụng hành chính hiện hành.

            Nếu UBND huyện thu hồi đất của bạn thì phải căn cứ vào quy định tại Điều 38 Luật đất đai năm 2003 và phải bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo quy định tại Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 04:43:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

     

    Ðiều 692 Bộ luật dân sự quy định:

    "Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

     Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai."

             Như vậy, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ký năm 2008 của gia đình bạn là hợp đồng viết tay, chưa có công chứng, chứng thực, chưa được sang tên nên chưa có hiệu lực pháp luật, chưa có giá trị pháp lý. Nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ không công nhận hợp đồng đó nếu hai bên không công chứng, chứng thực hợp đồng.

           Để đảm bảo an toàn pháp lý, tránh tranh chấp thì gia đình bạn phải ký lại hợp đồng chuyển nhượng để công chứng chứng thực hợp đồng và đăng ký sang tên theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 04:24:24 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

             1. Văn bản mà bạn trích dẫn ở trên không đủ căn cứ để xác định là Di chúc theo quy định pháp luật

              Điều 646 Bộ luật dân sự hiện hành (2005) quy định về di chúc như sau:

              "Ðiều 646. Di chúc

    Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.".

            Như vậy, theo quy định của pháp luật thì trước khi chết, người có tài sản có ý chí (lời nói, văn bản) để quyết định là SAU KHI người có tài sản chết thì tài sản đó sẽ thuộc về một người nào đó mà người có di sản chỉ định thì mới được gọi là Di chúc và chia thừa kế theo di chúc.

             Hơn nữa, việc làm, chứng, ký tên trong di chúc cũng được Bộ luật dân sự quy định như sau:

             "Ðiều 654. Người làm chứng cho việc lập di chúc

    Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

    1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;

    2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;

    3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.".

            Đối chiếu với các quy định của pháp luật, GIẤY NHƯỢNG QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN mà bạn nêu ở trên không đủ điều kiện để xác định là Di chúc theo quy định pháp luật. 

          Tiêu đề của văn bản là hợp đồng tặng cho tài sản (nhượng quyền sở hữu); nội dung cũng thể hiện sự tặng cho (chuyển dịch tài sản ngay lập tức, tại thời điểm người có tài sản còn sống) "trong khi còn minh mẫn tôi quyết định phân chia số tài sản trên và nhượng quyền sở hữu tài sản cho các con tôi" chứ không phải là chuyển quyền sở hữu tài sản cho các con SAU khi ông bố chết; Các con ký vào văn bản đó với tư cách là người nhận tặng cho tài sản; nếu là di chúc thì các con cũng không có quyền ký vào bản di chúc đó với tư cách là người làm chứng (vi phạm Điều 654 BLDS).

            2. GIẤY NHƯỢNG QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN trên là Hợp đồng tặng cho tài sản chưa có hiệu lực pháp luật nên toàn bộ tài sản trên sẽ được chia theo pháp luật cho các thừa kế theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 676 BLDS

    Điều 692 Bộ luật dân sự quy định:

    "Ðiều 692. Hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng đất 

    Việc chuyển quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai."

    Khoản 19, Điềuu 4 Luật đất đai quy định:

    "Đăng ký quyền sử dụng đất là việc ghi nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với một thửa đất xác định vào hồ sơ địa chính nhằm xác lập quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.".

    Theo thông tin bạn nêu thì việc chuyển quyền sử dụng đất trên chưa Đăng ký quyền sử dụng đất cho người nhận quyền sử dụng đất nên chưa có hiệu lực pháp luật. Toàn bộ nhà đất trên vẫn là di sản của người chết để lại chưa chia nên nếu có tranh chấp thì Tòa án sẽ chia di sản theo pháp luật cho hàng thừa kế thứ nhất của người có di sản.

             3. Đối với tài sản là động sản (tiền, tài sản khác)

     

    "Ðiều 466. Tặng cho động sản  

    Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được tặng cho nhận tài sản; đối với động sản mà pháp luật có quy định đăng ký quyền sở hữu thì hợp đồng tặng cho có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký.".

    Như vậy, nếu số tiền và các động sản khác mà ông bố mang tặng cho các con theo nội dung văn bản trên là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp và duy nhất của ông bố, đồng thời người nhận tặng cho đã nhận tài sản trên thực tế thì việc tặng cho đó có hiệu lực pháp luật. Số tiền, động sản khác không còn là di sản của ông bố nữa. Nếu ông Bố không có toàn quyền quyết định đối với tài sản tặng cho thì hợp đồng đó sẽ vô hiệu một phần.

    Nếu còn nội dung nào chưa rõ thì bạn có thể trình bày thêm thông tin và nêu ra thắc mắc cụ thể để được luật sư tư vấn miễn phí tại đây hoặc Website: http://luatsuchinhphap.hanoi.vn

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:52:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bác!

            Theo thông tin bác nêu thì bác đang sống tại khu tập thể nhưng vấn đề quan trọng nhất của vụ việc bác lại chưa nêu ra: Đó là việc sinh sống của bác tại khu tập thể đó căn cứ vào quyết định giao nhà, phân nhà, quyết định giao đất, phân đất nào? Nội dung quyết định đó quy định thế nào? Nhà đó là do cơ quan bố trí ở nhờ, cho thuê hay giao cho sở hữu? Bác có đủ căn cứ xác lập quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật chưa?

            Nếu bác được giao nhà để sử dụng mà không thuộc diện được phân nhà, giao đất không thu tiền sử dụng đất (hoặc có thu tiền sử dụng đất) thì bác đang ở nhà thuộc sở hữu nhà nước, đất đai do nhà nước quản lý và Công ty thông báo như vậy là đúng pháp luật.

           Tuy nhiên, xét về nguồn gốc nhà và hoàn cảnh của bác và các gia đình trong khu tập thể thì các gia đình có thể gửi đơn kiến nghị đến các cấp chính quyền để xem xét, giải quyết cho có tình, có lý và đúng pháp luật.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:44:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
              Theo thông tin bạn nêu thì việc chia đất đã hoàn thành ( tất cả anh em trong nhà: A, B,C,D đều đã được cấp GCN QSD đất). Do vậy, nếu có tranh chấp về việc chia lại đất mà không có sự đồng thuận của tất cả các anh em thì việc chia lại đất không thể thực hiện được, trừ trường hợp việc chia đất trước đó là không hợp pháp.

              Với tình trạng pháp lý hiện nay thì bố mẹ không thể can thiệp vào việc sử dụng đất của các con nữa vì GCN QSD đất đã đứng tên các con.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 03:05:06 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Gia đình bạn cần đo vẽ hồ sơ kỹ thuật thửa đất và xin phép tách thửa gửi tới Phòng TN&MT thành phố Biên Hòa (nếu UBND tỉnh Đồng Nai có quy định này). Nếu UBND thành phố Biên Hòa cho phép tách thửa thì gia đình bạn cần lập văn bản thỏa thuận chia quyền sử dụng đất có công chứng (nếu GCN QSD đất cấp cho Hộ gia đình) hoặc Hợp đồng tặng cho QSD đất có công chứng (nếu GCN QSD đất đứng tên ba mẹ bạn).

              Sau khi hợp đồng, văn bản về chia tách, chuyển quyền sử dụng đất được công chứng thì gia đình bạn nộp hồ sơ tới Phòng TN&MT để được đăng ký và cấp sổ cho các anh, chị em của bạn. Hồ sơ gồm:

    + Bản chính Văn bản, Hợp đồng về việc chuyển quyền sử dụng đất

    + Bản chính và bản sao GCN QSD đất

    + bản sao CMND và hộ khẩu của các Bên

    + Bản sao Đăng ký kết hôn của ba mẹ bạn

    + Bản sao Giấy khai sinh của các anh, chị, em bạn để làm căn cứ miễn thuế, phí.

              Theo quy định tại Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân thì việc chuyển quyền sử dụng đất giữa ba mẹ cho các con là trường hợp được miễn thuế. Nếu việc chuyển quyền sử dụng đất lần đầu giữa cha mẹ và con thì được miễn lệ phí trước bạ.

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 02:54:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Luật sư đã trả lời bạn!
    Bạn tham khảo theo đường dẫn sau: http://danluat.thuvienphapluat.vn/hoi-ve-don-tranh-chap-dat-dai-78891.aspx

  • Xem thêm     

    13/10/2012, 02:44:45 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            1. Theo thông tin bạn nêu: Tháng 8/2012 bạn gửi đơn đề nghị hòa giải đến UBND xã, theo quy định pháp luật (Điều 135 Luật đất đai) thì thời hạn hòa giải là 30 ngày. Vậy nếu sớm thì phải hết tháng 9/2012 thì UBND xã mới hòa giải vụ việc. Nếu bạn gửi đơn luôn cho Tòa án thì phải tháng 10/2012 thì Tòa án mới thụ lý vụ án. Theo quy định tại Điều 179 BLTTDS thì phải đến tháng 2/2013 thì mới giải quyết xong vụ án ở cấp sơ thẩm, nếu đương sự có kháng cáo, VKS kháng nghị thì phải đến tháng 7/2013 thì vụ án mới có thể kết thúc bằng bản án phúc thẩm.  Có xử án nhanh đến mấy thì vụ án của bạn cũng không thể kết thúc trong năm 2012!
     Vậy thông tin bạn nêu ra có nhầm lẫn hay không? Tình huống bạn nêu trên là giả định?

            3. "UBND xã để xử lại có được ko?": Theo quy định pháp luật thì UBND xã chỉ có quyền hòa giải tranh chấp đất đai theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai chứ không có quyền xét xử (thẩm quyền này chỉ thuộc về tòa án) hoặc giải quyết tranh chấp đất đai. Nếu vụ án đã được giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì UBND xã vẫn có thể hòa giải (không trái luật) nếu đương sự có đơn đề nghị. Nếu đương sự có đơn đề nghị hòa giải tranh chấp đất đai đối với vụ việc đã được tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì UBND xã có thể từ chối hòa giải và hướng dẫn họ đến cơ quan thi hành án để yêu cầu thi hành bản án đó theo Luật thi hành án hoặc khiếu nại bản án, quyết định đó theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.

  • Xem thêm     

    12/10/2012, 04:45:21 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

            Theo quy định pháp luật hiện hành thì tranh chấp đất đai không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1, 2, 5 Điều 50 Luật đất đai thì thẩm quyền giải quyết thuộc về UBND cấp huyện (Điều 136 Luật đất đai). Trước khi gửi đơn tới Chủ tịch UBND huyện thì một trong các Bên phải gửi đơn tới UBND cấp xã để được hòa giải theo quy định tại Điều 135 Luật đất đai;

           Nếu cơ quan hành chính Nhà nước có quyết định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người dân (thu hồi đất không ban hành văn bản, không bồi thường, không đúng thẩm quyền, không căn cứ vào Điều 38 Luật đất đai...) thì người dân có quyền khiếu nại theo Luật khiếu nại, Luật đất đai hoặc khởi kiện vụ án hành chính tới Tòa án theo thủ tục Tố tụng hành chính (Luật tố tụng hành chính hiện hành).

             Bạn lưu ý là việc khiếu nại, khởi kiện pháp luật quy định có thời hiệu, thời hạn giải quyết; thẩm quyền giải quyết; thủ tục giải quyết... do vậy nếu bạn khiếu kiện khi đã hết thời hiệu khiếu kiện hoặc khiếu kiện không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền.. thì sẽ không được giải quyết thỏa đáng, đúng pháp luật. Để việc khiếu kiện đúng pháp luật và đạt hiệu quả, tránh mất thời gian, công sức, tiền của một cách vô ích thì bạn nên tìm đến luật sư để được tư vấn, chỉ ra tình trạng pháp lý và cung cấp giải pháp cụ thể.

  • Xem thêm     

    12/10/2012, 03:29:38 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Về nguyên tắc, anh có thể xây dựng theo Quyết định147/2007/QĐ-TTg . Tuy nhiên Quyết định 147/2007/QĐ-TTg là phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015. Nay đã là 2012 nên việc xây dựng công trình sẽ khó thực hiện hơn. Tuy nhiên, đó chỉ là "phỏng đoán". Anh cứ làm đơn xin phép xây dựng xem sao? Anh cứ căn cứ vào Quyết địnhh trên để xin phép. Nếu chính quyền không cho phép xây dựng thì anh có quyền khiếu nại theo pháp luật. 

  • Xem thêm     

    11/10/2012, 05:46:07 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
             Luật sư Sơn đã tư vấn cho bạn. Tôi góp ý thêm như sau:

            Giao dịch của bạn như vậy là chưa tuân thủ quy định pháp luật về chuyển quyền sử dụng đất. Nếu hợp đồng của bạn được ký kết trước ngày 01/7/2004 thì bạn mới có thể được cấp GCN QSD đất theo quy định tại khoản 2, Điều 50 luật đất đai hoặc hướng dẫn tại Nghị quyết số02/2004/NQ-HĐTP. Với quy định pháp luật hiện hành (2012) thì với các giấy tờ đang có (hợp đồng chuyển nhượng viết tay năm 2006), bạn không thể được cấp GCN QSD đất nếu chủ sử dụng đất không ký kết, công chứng lại Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với bạn. 

             Vì vậy, bạn cần phải đàm phán với chủ sử dụng đất để ký kết, công chứng lại hợp đồng để sang tên. Nếu chủ đất đòi hỏi mức tiền cao như vậy hoặc có những hành vi khác gây khó khó khăn, cản trở trong việc sang tên, đăng ký quyền sử dụng đất thì bạn có thể khởi kiện tới Tòa án nơi có nhà đất đó để được giải quyết. Tòa án sẽ cho thời gian 01 tháng để hai bên ký lại hợp đồng công chứng và đăng ký. Nếu Bên bán cố tình không ký hợp đồng thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu giải quyết hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định tại Điều 137 BLDS và buộc bên bán phải bồi thường thiệt hại cho bạn.

            Nếu bên bán đã có chỗ ở và bạn không còn chỗ ở nào khác thì bạn vẫn có thể được tiếp tục quản lý, sử dụng nhà đất đó theo pháp luật. Sau khi có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì bạn sẽ được cấp GCN QSD đất, SQSH nhà ở theo phán quyết của Bản án, quyết định đó. Nếu giải quyết vụ việc theo pháp luật thì bên bán sẽ là người thua thiệt chứ không phải bạn, tuy nhiên bạn sẽ mất thời gian, công sức để theo kiện.

  • Xem thêm     

    11/10/2012, 04:06:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                - Khoản 1, Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính Phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, thu hồi, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định:

             "Nhà nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11  (sau đây gọi là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP) và các Điều 44, 45 và 46  (sau đây gọi là Nghị định số 84/2007/NĐ-CP) thì được bồi thường; trường hợp không đủ điều kiện được bồi thường thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét để hỗ trợ."

                - Điều 8 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất quy định:

    "Người bị Nhà nước thu hồi đất, có một trong các điều kiện sau đây thì được bồi thường:

    1. Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

    2. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về đất đai.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là ủy ban nhân dân cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 3 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.

    5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này, nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước    ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất đó không có tranh chấp.

    7. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành.

    8. Hộ gia đình cá nhân sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến thời điểm có quyết định thu hồi đất, mà tại thời điểm sử dụng không vi phạm quy hoạch; không vi phạm hành lang bảo vệ các công trình, được cấp có thẩm quyền phê duyệt đã công bố công khai, cắm mốc; không phải là đất lấn chiếm trái phép và được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận đất đó không có tranh chấp.

    9. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất mà trước đây Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước, nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý, mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn sử dụng.

    10. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.

    11. Tổ chức sử dụng đất trong các trường hợp sau đây:

    a) Đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã nộp không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước;

    b) Đất nhận chuyển nhượng của người sử dụng đất hợp pháp mà tiền trả cho việc chuyển nhượng không có nguồn từ ngân sách nhà nước;

    c) Đất sử dụng có nguồn gốc hợp pháp từ hộ gia đình, cá nhân"/

    Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai quy định:

    "Điều 44. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Trường hợp thu hồi đối với đất sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai và được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận đất đó không có tranh chấp thì việc bồi thường, hỗ trợ về đất thực hiện theo quy định sau:

    a) Trường hợp đất đang sử dụng là đất có nhà ở và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất ở theo quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Đối với phần diện tích vượt hạn mức giao đất ở và phần diện tích đất vườn, ao trên cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được công nhận là đất ở (nếu có) thì được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư;

    b) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (không phải đất ở) và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng. Trường hợp trên thửa đất có cả phần diện tích đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì phần diện tích đó được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp;

    c) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp mà người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường, hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định   số 181/2004/NĐ-CP;

    d) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này hoặc diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì người sử dụng đất không được bồi thường về đất; nếu đất đang sử dụng là đất có nhà ở mà người có đất bị thu hồi không có chỗ ở nào khác thì được hỗ trợ về đất hoặc được giải quyết nhà tái định cư theo quy định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

    2. Trường hợp thửa đất ở có vườn, ao sử dụng trước ngày 18 tháng 12 năm 1980 đã được cấp Giấy chứng nhận theo quy định tại khoản 2 Điều 45 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà thửa đất này được tách ra từ thửa đất không có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thửa đất còn lại sau khi đã tách thửa mà được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận không có tranh chấp cũng được bồi thường, hỗ trợ về đất đối với đất ở theo hạn mức quy định tại khoản 2 Điều 45 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.

    Điều 45. Bồi thường, hỗ trợ về đất khi Nhà nước thu hồi đất đối với đất sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 trở về sau mà không có giấy tờ về quyền sử dụng đất

    1. Trường hợp thu hồi đối với đất đã sử dụng trong khoảng thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 nhưng không có Giấy chứng nhận hoặc một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 50 của Luật Đất đai và được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận đất đó không có tranh chấp thì việc bồi thường, hỗ trợ về đất thực hiện theo quy định sau: 

    a) Trường hợp đất đang sử dụng là đất có nhà ở và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường về đất theo diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường không vượt quá hạn mức giao đất ở quy định tại khoản 2 Điều 83 và khoản 5 Điều 84 của Luật Đất đai tại thời điểm có quyết định thu hồi đất và giá trị bồi thường phải trừ đi tiền sử dụng đất phải nộp theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP. Đối với phần diện tích vượt hạn mức đất ở và phần diện tích đất vườn, ao trên cùng thửa đất có nhà ở nhưng không được công nhận là đất ở thì được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp;

    b) Trường hợp đất đang sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp (không phải là đất ở) và không thuộc một trong các trường hợp sử dụng đất quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này thì người đang sử dụng đất được bồi thường về đất đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng phải trừ đi tiền sử dụng đất phải nộp theo mức thu quy định tại điểm a khoản 3 Điều 8 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP. Giá đất tính thu tiền sử dụng đất là giá đất sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp cùng loại. Trường hợp trên thửa đất có cả phần diện tích đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp thì phần diện tích đó được bồi thường, hỗ trợ về đất theo quy định đối với đất nông nghiệp;

    c) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc nhóm đất nông nghiệp mà người đang sử dụng đất là hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì được bồi thường, hỗ trợ đối với diện tích đất thực tế đang sử dụng nhưng diện tích được bồi thường, hỗ trợ không vượt quá hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1 Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP;

    d) Trường hợp đất đang sử dụng thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 14 Nghị định này hoặc diện tích đất nông nghiệp vượt hạn mức giao đất quy định tại Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 1  Điều 69 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì người sử dụng đất không được bồi thường về đất; nếu đất đang sử dụng là đất có nhà ở mà người có đất bị thu hồi không có chỗ ở nào khác thì được giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Nghị định số 197/2004/NĐ-CP.

    2. Đất do lấn, chiếm và đất được giao, được cho thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 trở về sau thì người có hành vi lấn, chiếm hoặc được giao đất, thuê đất không đúng thẩm quyền không được bồi thường về đất khi thu hồi đất..".

              Căn cứ vào các quy định pháp luật trên, đối chiếu với thông tin bạn nêu trên thì có căn cứ để bồi thường, hỗ trợ cho ông A theo quy định pháp luật.

  • Xem thêm     

    10/10/2012, 09:17:00 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chảo bạn!

    Nếu bạn xây cơ sở hạ tầng tối đa không quá 20% là phù hợp với quy định pháp luật. Tuy nhiên, thời hạn thực hiện Quyết định 147/2007/QĐ-TTg là phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015 nên việc bạn xây dựng công trình kiên cố để sử dụng lâu dài là khó có thể được chính quyền cho phép.

    Quyết định của Thủ tướng là quy định chung, còn khi triển khai thực hiện thì bạn phải xin phép xây dựng theo các quy định về quản lý xây dựng.

  • Xem thêm     

    10/10/2012, 10:14:32 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
           Việc giao đất (có quyết định giao đất của cơ quan có thẩm quyền), cho thuê đất hoặc Công nhận quyền sử dụng đất (Cấp GCN QSD đất lần đầu cho người sử dụng đất) đều là những căn cứ để xác lập quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật (Điều 688 BLDS).

          Do vậy, việc giao đất có giá trị pháp lý ngang với việc cấp GCN QSD đất. Chỉ cần có quyết định giao đất là người sử dụng đất có căn cứ hợp pháp để sử dụng diện tích đất đó. Việc người sử dụng đất có được cấp GCN QSD đất hay không còn phụ thuộc vào nhu cầu của họ. Nếu họ không kê khai, làm thủ tục xin cấp GCN QSD đất thì chính quyền không thể tự ý cấp GCN QSD đất cho họ được.

          Nếu chính quyền muốn chứng minh việc ông A đã được giao đất nên không thuộc trường hợp được giao đất (lần 2) thì chỉ cần cung cấp quyết định giao đất trước đây hoặc các văn bản, tài liệu chứng minh là ông A đã được Nhà nước giao đất...

  • Xem thêm     

    10/10/2012, 10:04:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

                 1. Trường hợp bạn hỏi có thể được công nhận quyền sử dụng đất cho người nhận chuyển nhượng nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 50 Luật đất đai năm 2003 (Người chuyển nhượng có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật đất đai và đã lập hợp đồng chuyển nhượng cho người khác trước ngày 01/7/2004. Hợp đồng chuyển nhượng không cần phải có công chứng, chứng thực). Bạn tham khảo quy định tại khoản 1, 2 Điều 50 Luật đất đai sau đây:

                "Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất."

               2. Trong trường hợp mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất trước ngày 01/7/2004 (ngày có hiệu lực của luật đất đai năm 2003) mà chưa tuân thủ về thủ tục (mua bán viết tay, chưa có giấy chứng nhận...) mà có tranh chấp về quyền sử dụng đất thì Tòa án sẽ áp dụng quy định tại mục 2, phần II, Nghị quyết số 02/2004/NQ0-HĐTP ngày 10/8/2004 hướng dẫn áp dụng giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình để giải quyết, cụ thể như sau:

                "Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

    2.1. Đối với tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập trước ngày 01/7/1980 (ngày Hội đồng Chính phủ nay là Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP về việc thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường công tác quản lý ruộng đất trong cả nước) mà sau ngày 15/10/1993 mới phát sinh tranh chấp, thì việc giải quyết tranh chấp này như sau:

    a) Trường hợp nội dung và hình thức của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    a.1. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã nhận đất thì Toà án công nhận hợp đồng, buộc các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng và phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất. Nếu bên nhận đất chưa trả đủ tiền cho bên có đất thì buộc họ phải trả cho bên chuyển nhượng số tiền còn thiếu theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    a.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền nhưng chưa nhận đất và bên chuyển nhượng vẫn quản lý, sử dụng, chưa xây dựng công trình kiến trúc trên đất đó, thì các bên phải thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thoả thuận khác.

    Trong trường hợp bên chuyển nhượng đã làm nhà ở hoặc không có điều kiện để giao đất cho bên nhận chuyển nhượng, thì tuỳ trường hợp cụ thể Toà án có thể huỷ hợp đồng, buộc bên chuyển nhượng phải thanh toán cho bên nhận chuyển nhượng khoản tiền đã nhận theo giá đất thực tế trên thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    b) Trường hợp nội dung của hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật nhưng hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật tại thời điểm giao kết hợp đồng.

    b.1. Nếu các bên chưa thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng.

    b.2. Nếu bên nhận chuyển nhượng đã trả đủ tiền chuyển nhượng đất; bên chuyển nhượng đã giao toàn bộ diện tích đất, thì Toà án công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất đó. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng mới trả một phần tiền chuyển nhượng đất, bên chuyển nhượng mới giao một phần diện tích đất, thì có thể công nhận phần hợp đồng đó căn cứ vào diện tích đất đã nhận. Nếu công nhận phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Đồng thời buộc các bên phải làm thủ tục chuyển quyền sử dụng đất đối với diện tích đất mà bên nhận chuyển nhượng đã nhận. Trong trường hợp bên nhận chuyển nhượng đã giao số tiền lớn hơn giá trị diện tích đất đã nhận mà Toà án chỉ công nhận phần hợp đồng tương ứng với diện tích đất mà họ đã nhận thì bên chuyển nhượng phải thanh toán khoản tiền đã nhận vượt quá giá trị diện tích đất đã giao tính theo giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm.

    c) Đối với trường hợp được hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này mà bên chuyển nhượng đã nhận tiền của bên nhận chuyển nhượng nhưng chưa giao đất cho họ mà đất đó đã bị Nhà nước thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng và có đền bù cho bên chuyển nhượng đất thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu và huỷ hợp đồng. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    d) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có điều kiện mà điều kiện đó đã xảy ra hoặc đã được thực hiện, thì hợp đồng đó được giải quyết theo hướng dẫn tại điểm a và điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 này.

    đ. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà toàn bộ hoặc một phần nội dung của hợp đồng vi phạm pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội thì bị vô hiệu toàn bộ hoặc một phần và việc giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo quy định tại Điều 137, Điều 146 của Bộ luật Dân sự và hướng dẫn tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    2.2. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ ngày 01/7/1980 (ngày Chính phủ ban hành Quyết định số 201/CP) đến trước ngày 15/10/1993 (ngày Luật Đất đai năm 1993 có hiệu lực)

    Pháp luật thời kỳ này nghiêm cấm việc mua, bán phát canh thu tô chuyển nhượng đất đai dưới mọi hình thức; do đó, khi có tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Toà án giải quyết như sau:

    a) Về nguyên tắc chung hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đai được xác lập trong thời điểm từ ngày 01/7/1980 đến trước ngày 15/10/1993 là hợp đồng trái pháp luật; do đó, nếu có tranh chấp mà hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa được thực hiện thì Toà án huỷ hợp đồng vì hợp đồng bị vô hiệu. Việc giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu được thực hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b) Nếu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được thực hiện thì Toà án công nhận hợp đồng trong các trường hợp sau đây:

    b.1. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai;

    b.2. Trường hợp đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã hoàn tất thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền, Uỷ ban nhân dân đã cho phép việc chuyển nhượng;

    b.3. Bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh không vi phạm qui định về quy hoạch và bên chuyển nhượng cũng không phản đối khi bên nhận chuyển quyền sử dụng đất xây nhà ở, công trình kiến trúc, trồng cây lâu năm, đầu tư sản xuất, kinh doanh trên đất đó.

    2.3. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được xác lập từ sau này 15/10/1993

    a) Điều kiện để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

    Theo qui định tại Điều 131, các điều từ Điều 705 đến Điều 707 và Điều 711 của Bộ luật Dân sự, khoản 2 Điều 3, Điều 30, Điều 31 của Luật Đất đai năm 1993 và khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 1 Điều 127, khoản 1 Điều 146 của Luật Đất đai năm 2003, thì Toà án chỉ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất khi hợp đồng đó có đầy đủ các điều kiện sau đây:

    a.1. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có năng lực hành vi dân sự;

    a.2. Người tham gia giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoàn toàn tự nguyện;

    a.3. Mục đích và nội dung của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không trái pháp luật, đạo đức xã hội;

    a.4. Đất chuyển nhượng đã được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1987, Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003;

    a.5. Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện chuyển nhượng và bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có đủ điều kiện về nhận chuyển nhượng theo qui định của pháp luật;

    a.6. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được lập thành văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền.

    b) Xác định hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có đầy đủ các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a tiểu mục 2.3 mục 2 này.

    b.1. Đối với hợp đồng được giao kết trước ngày 01/7/2004 vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 tiểu mục 2.3 mục 2 này (Chưa có giấy chứng nhận), nhưng đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, mà có phát sinh tranh chấp, nếu từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.2. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà tại thời điểm giao kết vi phạm các điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2, 3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nhưng sau đó đã được Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 mà có phát sinh tranh chấp và từ ngày 01/7/2004 mới có yêu cầu Toà án giải quyết, thì không coi là hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều kiện này.

    b.3. Đối với hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vi phạm điều kiện được hướng dẫn tại điểm a.4 và điểm a.6 tiểu mục 2.3 mục 2 này (HỢP ĐỒNG VIẾT TAY, CHƯA CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN), nếu sau khi thực hiện hợp đồng chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng đã trồng cây lâu năm, đã làm nhà kiên cố... và bên chuyển nhượng không phản đối và cũng không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo các quy định của Nhà nước về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, thì Toà án công nhận hợp đồng. Nếu bên nhận chuyển nhượng chỉ làm nhà trên một phần đất, thì Toà án công nhận phần hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng phần đất có nhà ở và huỷ phần hợp đồng đối với diện tích đất còn lại, buộc bên nhận chuyển nhượng giao trả phần đất đó cho bên chuyển nhượng, trừ trường hợp việc giao trả không bảo đảm mục đích sử dụng cho cả hai bên giao kết hợp đồng, đồng thời buộc các bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch.".

    (Theo: http://luatsuchinhphap.hanoi.vn)

  • Xem thêm     

    09/10/2012, 09:23:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    1. Trước tiên bạn phải thu thập các chứng cứ về việc không khách quan của ông Trưởng phòng TN&MT đó để khiếu nại hoặc tố cáo hành vi của ông ta.

    2. Vụ việc còn đang trong quá trình giải quyết nên gia đình bạn có thể cung cấp thêm các tài liệu, chứng cứ về quyền sử dụng đất hợp pháp của gia đình mình làm căn cứ cho UBND huyện giải quyết vụ việc.

    3. Nếu UBND huyện ra quyết định hủy bỏ GCN QSD đất của gia đình bạn thì gia đình bạn có quyền khởi kiện UBND huyện đến Tòa án huyện theo thủ tục tố tụng hành chính. Nếu việc giải quyết đơn thư, hủy GCN QSD đất trái pháp luật gây thiệt hại đến tài sản của gia đình bạn thì UBND huyện và những cán bộ có liên quan phải bồi thường thiệt hại theo quy định về luật bồi thường trách nhiệm Nhà nước.

  • Xem thêm     

    09/10/2012, 11:12:52 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc tranh chấp bạn trình bày ở trên là một vụ việc phức tạp, kéo dài, nhiều thủ tục, nhiều cơ quan đã giải quyết.... Với thông tin sơ lược như vậy thì chưa thể khẳng định được bà D có đòi lại được đất hay không. Để giải quyết vụ việc thì luật sư cần phải được tiếp cận hồ sơ, gặp gỡ các đương sự... Tuy nhiên, luật sư có thể trả lời những thắc mắc của bạn trên cơ sở các nguyên tắc pháp luật sau đây:

     -  Vì sao công an xác định chữ ký trong giấy nhượng đất "không phải của ông A" mà ông H vẫn thắng kiện (được công nhận quyền sử dụng đất):

    Ðiều 688 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:

    "Căn cứ xác lập quyền sử dụng đất

    1. Ðất đai thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất quản lý.

    2. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác được xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử dụng đất.

    3. Quyền sử dụng đất của cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác cũng được xác lập do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy định của Bộ luật này và pháp luật về đất đai."

     Như  vậy, giả sử không có căn cứ xác định ông A đã chuyển quyền sử dụng đất cho ông H nhưng ông H có căn cứ khác chứng minh ông H đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai thì ông H vẫn thắng kiện.

    - Bà D có đòi lại được đất do ông T đang sử dụng không?

    Ðiều 258 BLDS năm 2005 quy định:

    "Quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình

    Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản, trừ trường hợp người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa."

    Như vậy, nếu có căn cứ xác định ông T là người thứ ba ngay tình có được tài sản thông qua giao dịch hợp pháp với ông H, sau đó quyết định cấp GCN QSD đất của ông H bị hủy, sửa thì ông T vẫn được pháp luật bảo vệ.

    - Ngoài ra vụ việc đòi đất của bà D còn phải tính đến thời hiệu và căn cứ của bà D để đòi quyền sử dụng đất (bà D có một trong các loại giấy tờ theo Điều 50 Luật đất đai không?)... Bạn có thể cung cấp thêm thông tin để được luật sư tư vấn miễn phí.

    (Theo:http://luatsuchinhphap.hanoi.vn )

     

  • Xem thêm     

    08/10/2012, 10:29:54 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Bạn có thể tham khảo các quy định của Luật đất đai, Nghị định 180/2007/NĐ-CP ngày 07/12/2007 của Chính phủ hướng dẫn Luật xây dựng về xử lý công trình vi phạm trật tự xây dựng đô thị ; Nghị định 23/2009/NĐ-CP ngày 27/01/2009 của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực xây dựng; Nghị định 105/2009/ND-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ quy định về Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai ...

     

    Điều 17 Nghị định số 180/2007/NĐ-CP quy định:

    "Thẩm quyền xử lý vi phạm trật tự xây dựng đô thị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã

    1. Quyết định đình chỉ thi công xây dựng đối với công trình xây dựng vi phạm thuộc địa bàn mình quản lý; quyết định cưỡng chế phá dỡ đối với công trình xây dựng vi phạm thuộc địa bàn do mình quản lý trừ những công trình quy định tại khoản 1 Điều 18 Nghị định này.

    2. Tổ chức thực hiện cưỡng chế tất cả các công trình xây dựng vi phạm theo quyết định cưỡng chế của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện và Chánh thanh tra Sở Xây dựng.

    3. Xử lý cán bộ dưới quyền được phân công quản lý trật tự xây dựng đô thị để xảy ra vi phạm mà không xử lý kịp thời, dung túng bao che cho hành vi vi phạm.

    4. Kiến nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện xử lý các trường hợp vi phạm trật tự xây dựng đô thị vượt thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã; xử lý cán bộ làm công tác quản lý trật tự xây dựng đô thị thuộc thẩm quyền quản lý của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện.".

     

    Điều 59 Nghị định số 23/2009/NĐ-CP  quy định: 

    "Thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã

    1. Phạt tiền đến 2.000.000 đồng;

    2. Áp dụng hình thức xử phạt bổ sung:

    Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến 2.000.000 đồng.

    3. Áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả:

    a. Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra;

    b. Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành chính gây ra.

    c. Tạm giữ tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính

    d. Buộc các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm thực hiện đúng quy định của pháp luật.".

    Khoản 1, Điều 25 Nghị định 105/2009/NĐ-CP quy định:

    " Thẩm quyền của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp trong việc xử phạt vi phạm hành chính

     

    1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có quyền:

    a) Phạt cảnh cáo;

    b) Phạt tiền đến hai triệu (2.000.000) đồng;

    c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính có giá trị đến hai triệu (2.000.000) đồng;

    d) Buộc khôi phục lại tình trạng của đất như trước khi vi phạm; buộc khắc phục tình trạng làm suy giảm đất, khắc phục việc thải chất độc hại vào đất; tịch thu lợi ích có được do vi phạm có giá trị đến hai triệu (2.000.000) đồng; buộc phải thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; buộc phải cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu và chấp hành yêu cầu thanh tra, kiểm tra.

    ..."

  • Xem thêm     

    08/10/2012, 09:17:20 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Vụ việc bạn nêu là tranh chấp hợp đồng mua bán nhà do Bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Do vậy, bên bán nhà có thể khởi kiện tới Tòa án để yêu cầu Bên mua phải thanh toán nốt tiền mua nhà theo thỏa thuận của Hợp đồng.

  • Xem thêm     

    06/10/2012, 08:30:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu phần diện tích đất tranh chấp đó đã có quyết định thu hồi đất mà không bị khiếu kiện hoặc đã có quyết định cưỡng chế thu hồi đất thì chủ đất cũ không còn quyền sử dụng phần đất đó nữa. Phần diện tích đất bị thu hồi sẽ được sử dụng đúng mục đích thu hồi đất.

    Nếu có tranh chấp thì bạn có thể yêu cầu UBND hòa giải và các cơ quan có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại Điều 136 Luật đất đai.

129 Trang «<72737475767778>»