Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Vũ Văn Toàn - toanvv

2 Trang <12
  • Xem thêm     

    08/11/2016, 09:25:32 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo thông tin bạn ở trên thì mẹ bạn ấy đã mất không để lại di chúc, không rõ ông bà nội, ngoại và bố bạn đó ra sao. Tài sản chung của cha mẹ bạn là một căn nhà. Khi đó, nhà ở sẽ được coi là di sản thừa kế do mẹ bạn đó để lại. Thông tin bạn cung cấp thì tôi cứ coi những người như ông bà nội ngoại và người chồng(bố) mặc nhiên là đã chết trước mẹ bạn đó.

    Vì mẹ bạn đó khi chết không để lại di chúc nên di sản được chia theo pháp luật, những người thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 676 BLDS được quy định theo thứ tự sau đây: “ Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”

    Đối chiếu với quy định nêu trên và với thông tin bạn cung cấp thì tại thời điểm mở thừa kế, hàng thừa kế thứ nhất của mẹ bạn đó bao gồm: người chồng và 5 người con. Di sản thừa kế của mẹ bạn sẽ được chia đều cho 5 người con và 4 người con gái đã cùng nhau ủy quyền cho người con trai đứng tên căn nhà đang ở ( để làm giấy tờ gì đó cho nó dễ ).

    Nếu việc ủy quyền cho một người là đại diện đứng tên trên Giấy CNQSD đất thì mọi việc khi phân chia tai sản sẽ theo quy định như ở trên, mỗi người được chia đều và hưởng phần bằng nhau. Nhưng ngược lại, nếu không phải là ủy quyền như trên mà là văn bản khai nhận thừa kế thì mọi việc sẽ khác hẳn do tài sản thừa kế đã được khai nhận đứng tên người con trai và bốn người con gái sẽ không được hưởng hay chia phần do đã từ chối hoặc tặng cho nười em trai của mình phần di sản đó.

    Trên đây là ý kiến tư vấn của tôi. Nếu bạn có vấn đề gì thắc mắc hoặc chưa hiểu thì bạn hãy liên lạc với tôi theo số ĐT dưới đây để được tư vấn một cách cụ thể hơn.

  • Xem thêm     

    25/04/2010, 04:33:10 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Chào bạn

    Rất cảm ơn sự tín nhiệm của bạn đối với tôi

    Trường hợp của bạn tôi xin trao đổi như sau:

    Nếu ba bạn không di chúc để lại thì quyền thừa kế mảnh đất 500m2 có tên bà vợ trước và anh con nuôi trong đó hay không?

    Căn cứ tại khoản 1 điều 675 Bộ luật dân sự (BLDS 2005) có quy định thừa kế theo pháp luật được áp dụng trong trường hợp không có di chúc. Vì vậy di sản của ba bạn sẽ được chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

    Đồng thời, điểm a khoản 1 điều 676 BLDS 2005 có quy định: “Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết”; và khoản 2 điều 676 BLDS 2005 cũng quy định: “Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau”.

    Từ căn cứ trên có thể khẳng định như sau:

    Di sản của ba bạn sẽ được được chia làm ba phần: Mẹ bạn, bạn và anh con nuôi của ba bạn sẽ được hưởng phần di sản bằng nhau, vì đây là tài sản của ông bà nội để lại nên phần tài sản này được tính là tài sản riêng của ba bạn, người vợ trước đã ly hôn thì đương nhiên không được hưởng phần di sản này.

    Để di chúc có đầy đủ cơ sở pháp lý thì cần những thủ tục gì?

    Theo quy định tại Điều 652 Bộ luật Dân sự thì Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây: a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép; b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.

    Về hình thức của Di chúc, có thể lựa chọn 1 trong 3 loại Di chúc sau:

    - Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng

    - Di chúc bằng văn bản có người làm chứng

    - Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

    Để đảm bảo rằng Di chúc lập hợp pháp, cần lưu ý một số vấn đề sau:

    1. Đối với Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: phải tự tay viết và ký vào bản di chúc.

    Di chúc phải ghi rõ: a) Ngày, tháng, năm lập di chúc; b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; c) Họ, tên người được hưởng di sản hoặc xác định rõ các điều kiện để cá nhân được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản; đ) Việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.

    2. Đối với Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: Trong trường hợp không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

    Nội dung di chúc có người làm chứng cũng phải ghi rõ như nội dung di chúc không có người làm chứng như chúng tôi vừa nêu trên.

    Về người làm chứng thì bất kỳ ai cũng có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:

    - Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc

    - Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc

    - Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự

    3. Đối với Di chúc có công chứng hoặc chứng thực

    Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:

    1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình.

    Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc;

    2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.

    Về nguyên tắc thì cả 3 loại di chúc trên đều có giá trị pháp lý như nhau.

    Tuy nhiên, nếu hiểu biết pháp luật của người lập di chúc không đầy đủ dẫn đến việc lập di chúc không thỏa mãn các quy định của pháp luật thì khi có tranh chấp di chúc có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu toàn bộ hoặc vô hiệu một phần, dẫn đến ý nguyện của người chết không được thực hiện, quyền lợi hợp pháp của người thừa kế theo di chúc không được đảm bảo.

    Do vậy, để di chúc hợp pháp người lập di chúc nên nhờ luật sư soạn thảo di chúc hoặc di chúc cần phải được công chứng, chứng thực theo quy định.

    Nếu có gì thắc mắc cụ thể bạn có thể liên hệ trực tiếp với tôi.

    Chào bạn

  • Xem thêm     

    06/04/2010, 04:35:38 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Chào bạn.

    Cám ơn bạn đã tín nhiệm sự tư vấn của tôi

    Trường hợp của bạn tôi xin tư vấn như sau:

    Bạn đã không nói rõ bạn là người Việt Nam có mang quốc tịch nước ngoài hay không, nếu bạn có quốc tịch Việt Nam thì thủ tục xin con nuôi rất dễ dàng, còn bạn có quốc tịch Mỹ thì sẽ phức tạp hơn rất nhiều.

    Việc xin con nuôi phải có sự đồng ý của cha mẹ đẻ ra đứa trẻ đó được thể hiện bằng giấy thỏa thuận về việc đồng ý cho con đang sống tại gia đình làm con nuôi

    Giả sử bạn nhận được đứa trẻ làm con nuôi thì việc đưa đi Mỹ hay không đã được thể hiện rõ bằng văn bản trong thủ tục xin con nuôi.

    Chào bạn.

    Chúc bạn may mắn và thành công

  • Xem thêm     

    03/02/2010, 09:11:09 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung...

    Trong trường hợp không có chứng cứ chứng minh tài sản có tranh chấp là tài sản riêng thì tài sản đó được xem là tài sản chung. Căn cứ Điều 27 – Luật hôn nhân gia đình năm 2000, Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

    Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Căn cứ Điều 32 – Luật hôn nhân gia đình năm 2000, Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 (Chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân) và Điều 30 (Hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng) của Luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân. Đồng thời Luật cũng quy định về việc Vợ, chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung.

    Nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn Căn cứ Điều 95 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn được xác định như sau: Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.

    Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây: Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;

    Trên đây là ý kiến của Luật sư căn cứ vào quy định của pháp luật và các dữ kiện do chị cung cấp, trong trường hợp cần tư vấn cụ thể hơn, đề nghị chị liên hệ trực tiếp và cung cấp đầy đủ các dữ kiện.

    Trân trọng!
  • Xem thêm     

    28/01/2010, 11:59:03 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Câu hỏi này đã được tôi trả lời giống như trên và hoàn toàn giống nhau về nội dung của cả câu hỏi lẫn câu trả lời.
  • Xem thêm     

    28/01/2010, 11:57:22 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Bạn đã hỏi tôi một lần về vấn đề này và cũng đã hỏi rất nhiều luật sư và họ đã tư vấn cho bạn một cách rõ ràng trường hợp của bạn. Nay với câu hỏi mới của bạn "tòa án triệu tập anh ta không đến vạy tòa án có thể tự truy bắt anh ta được không" tôi xin trả lời như sau:

    Tòa án triệu tập anh ta không đến và tòa án không thể tự truy bắt anh ta đc vì đay là vụ án dân sự nên nó cũng phải tuân thủ theo quy định tố tụng trong bộ luật tố tụng dân sự. Trong Bộ luật tố tụng dân sự không quy định về điều này, nhưng tại khoản 2 điều 60 Bộ luật tố tụng dân sự có quy định: " Bị đơn đã triệu tập đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn".

    Bởi vậy bạn cứ yên tâm khi căn cứ vào khoản 2 điều 200 BLTTDS: "Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ"
    Nếu có gì thắc mắc bạn liên hệ với tôi để được tư vấn một cách cụ thể hoen
    Chào bạn

    LS: Vũ Văn Toàn  Mobile: 0978994377  Email: toanvuvan@gmail.com

  • Xem thêm     

    14/01/2010, 12:13:18 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    toanvv
    toanvv
    Top 25
    Male
    Luật sư quốc gia

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:23/09/2009
    Tổng số bài viết (2218)
    Số điểm: 12665
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 1615 lần


    Trường hợp của bạn chúng tôi nêu quan điểm của mình như sau:

    Bạn và Khiêm mặc dù đã cưới nhau và sống với nhau có 2 mặt con, nhưng một thực tế là bạn chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn theo đúng thủ tục và về mặt pháp lý thì bạn vẫn chưa phải là vợ của Khiêm. Đây là một thiệt thòi khá lớn cho bạn, và Khiêm vẫn có quyền đương nhiên kết hôn với người khác một cách hợp pháp.

    Trường hợp bạn bị đánh đã được cơ quan Công An lập hồ sơ nhưng tôi chưa biết cụ thể và  vụ việc này sẽ do cơ quan Công An thụ lý và bạn phải yêu cầu Công An giải quyết.

    Còn việc của bạn hiện tại có yêu cầu để con bạn được hưởng quyền lợi cao nhất thì bạn phải làm đơn yêu cầu Tòa Án nơi bạn và Khiêm cùng cư trú để yêu cầu cấp dưỡng và chăm sóc con cái cho con.

    Nếu có gì thắc mắc bạn có thể liên lạc với tôi

2 Trang <12