Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Dương Văn Mai - LuatSuDuongVanMai

48 Trang «<567891011>»
  • Xem thêm     

    31/08/2015, 04:42:07 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Trước hết luật sư xin chia sẻ với bạn vì sự việc đáng tiếc xảy đến với người thân của bạn.

    Với thông tin bạn cung cấp bước đầu nếu công an giao thông kết luận như vậy thì chưa phù hợp quy định pháp luật bởi trong trường hợp này người đi xe máy đó đã không đủ điều kiện được tham gia giao thông theo quy định của luật giao thông đường bộ.

    Bản thân họ lại chạy quá tốc độ đên 20km như vậy người này cũng có nhiều lỗi để dẫn đến tai nạn giao thông.

    Trường hợp cơ quan chức năng cũng như người đi xe máy chứng minh được lỗi thuộc về vợ bạn thì vợ bạn sẽ phải bồi thường thiệt hại đã xảy ra nếu sức khỏe bị tổn thương từ 30% trở lên và giá trị chiếc xe bị hỏng là lớn thì vợ bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 202 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên khi đó phải xác định là lỗi thuộc về vợ bạn nhé.

    Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh 2 của Công ty luật Bách Dương.

    Chúc bạn mạnh khỏe, vợ bạn sớm bình phục cũng như sớm giải quyết được vụ việc.

  • Xem thêm     

    24/08/2015, 10:52:11 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với nội dung bạn hỏi Luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Đây là trường hợp tàng trữ trái phép vũ khí quân sự thuộc trường hợp được quy định tại Điều 230 Bộ luật Hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 cụ thể điều luật quy định như sau:

    1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ một năm đến bảy năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Vật phạm pháp có số lượng lớn;

    c) Vận chuyển, mua bán qua biên giới;

    d) Gây hậu qủa nghiêm trọng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười năm đến mười lăm năm:

    a) Vật phạm pháp có số lượng rất lớn;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5.  Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Như vậy nếu em bạn tàng trữ khẩu súng K59 chỉ là hành vi đơn giản không có tổ chức, không có tính chất tái phạm.... thì em trai bạn sẽ phải đối mặt với khung hình phạt được quy định tại Khoản 1, Điều 230 nêu trên khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Đối với trường hợp này em bạn cũng hoàn toàn có thể thực hiện việc giao nộp vũ khí tại các điểm tập kết, thu hồi vũ khí của địa phương để tránh việc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

    Đó là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp bạn nêu, chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    14/08/2015, 10:56:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Về nguyên tắc khi sự việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự thì bạn sẽ được tham gia vụ án với tư cách là người bị hại.

    Khi đó bạn có quyền đưa ra các yêu cầu của mình trong đó có việc trả lại tiền cho bạn, tức là ngoài hình phạt được quy định tại điều 140 Bộ luật hình sự thì cô Lan đó sẽ có trách nhiệm thi hành nghĩa vụ dân sự - trả lại tiền.

    Khi được triệu tập bạn cần cung cấp các thông tin liên quan tới sự vi phạm pháp luật của cô Lan đó và yêu cầu về việc lấy lại số tiền.

    Chúc bạn có quyết định chuẩn xác nhất.

  • Xem thêm     

    11/08/2015, 04:13:31 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Trước hết luật sư xin chia sẻ với bạn và gia đình vì sự việc đáng tiếc này.

    Với các thông tin bạn nêu trường hợp này bố bạn có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Nội dung chi tiết của điều luật được trích dẫn phía dưới.

    Điều 95. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

    1.  Người nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của người đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2.  Giết nhiều người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm.

    Điều 96. Tội giết người do vựơt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

    1.  Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    2. Giết nhiều người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, thì bị phạt tù từ hai năm đến năm năm.

    Trong trường hợp này những người đến đập phá, phá hoại tài sản của gia đình bạn cũng có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng...

    Đây là vụ án nghiêm trọng vì vậy để có thông tin và tư vấn cho bạn, gia đình chính xác nhất thì cần thêm những thông tin hoặc kết luận điều tra vụ án bạn nhé.

    Trường hợp này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bố bạn thì gia đình bạn có thể mời luật sư tham gia bào chữa cho bố bạn ngay từ giai đoạn điều tra nếu sự việc đã có quyết định khởi tố vụ án hình sự.

    Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư Dương Văn Mai, Công ty Luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội cho trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc hoặc cần tư vấn chi tiết, phù hợp với tính chất của sự việc bạn có thể gọi tới Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2 của Công ty luật Bách Dương.

    Chúc bạn mau bình phục và sớm giải quyết được sự việc.

  • Xem thêm     

    11/08/2015, 03:31:18 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Việc vay mượn tài sản giữa các cá nhân với nhau bản chất là quan hệ dân sự nhưng nếu người vay sử dụng sai mục đích, không trả nợ, trốn tránh hoặc bỏ trốn thì có căn cứ để chuyển sang hình sự theo Điều 140, Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009.

    Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:

    a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian  dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

    b) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó  vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm;

    e) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b)  Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm và bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    Căn cứ quy định trên thì trường hợp này nếu bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản người tên Lan đó sẽ bị áp dụng khung hình phạt được quy định tại khoản 2, Điều 140 " phạt tù từ hai năm đến bảy năm".

    Đó là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp của bạn, nếu cần tư vấn chính xác nhất phù hợp với thông tin sự việc của bạn bạn có thể gọi tới Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2 của Công ty luật Bách Dương để được luật sư tư vấn.

    Chúc bạn mạnh khỏe, thành công!

  • Xem thêm     

    29/07/2015, 01:38:29 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp này luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có được quy định tại Điều 250 Bộ luật hình sự theo đó:

    1. Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm .

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến  bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b)  Có tính chất chuyên nghiệp ;

    c) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị lớn;

    d)  Thu lợi bất chính lớn;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ  năm năm đến mười năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị rất lớn;

    b) Thu lợi bất chính rất lớn.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Tài sản, vật phạm pháp có giá trị đặc biệt lớn;

    b) Thu lợi bất chính đặc biệt lớn.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này.

    Và căn cứ Thông tư số liên tịch số 09/2011/TTLT- BCA – BQP- BTP-NHNNVN- VKSNDTC-TANDTC ngày 30 tháng 11 năm 2011 giải thích rõ hành vi chứa chấp và hành vi tiêu thụ như sau:

    1. Chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó.

    2. Tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó.

    Như vậy trong trường hợp này bạn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và bị áp dụng hình phạt theo quy định tại Khoản 1, Điều 250 là phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể gọi tới Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2 của Công ty luật Bách Dương để được luật sư tư vấn trực tiếp.

    Chúc bạn mạnh khỏe, thành công!

     

  • Xem thêm     

    29/07/2015, 12:44:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn về trường hợp này như sau:

    Trước hết trong quá trình giải quyết vụ án hình sự cơ quan tiến hành tố tụng có quyền trưng cầu giám định để xác định tỷ lệ thương tật về sức khỏe, tỷ lệ thiệt hại về tài sản để sử dụng làm căn cứ giải quyết vụ việc.

    Trường hợp người bị hại, bị cáo trong vụ án hình sự không đồng ý với kết luận giám định thì có quyền yêu cầu giám định lại, nếu yêu cầu này không được chấp thuận thì cũng có quyền tự yêu cầu giám định. Đây là quy định tại Điều

    Điều 22. Quyền, nghĩa vụ của người yêu cầu giám định tư pháp

    1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định.

    2. Người yêu cầu giám định có quyền:

    a) Yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp trả kết luận giám định đúng thời hạn đã thỏa thuận và theo nội dung đã yêu cầu;

    b) Yêu cầu cá nhân, tổ chức đã thực hiện giám định tư pháp giải thích kết luận giám định;

    c) Đề nghị Toà án triệu tập người giám định tư pháp đã thực hiện giám định tham gia phiên tòa để giải thích, trình bày về kết luận giám định;

    d) Yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định lại; yêu cầu giám định bổ sung theo quy định tại khoản 1 Điều 29 của Luật này.

    3. Người yêu cầu giám định tư pháp có nghĩa vụ:

    a) Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến đối tượng giám định theo yêu cầu của người giám định tư pháp và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin, tài liệu do mình cung cấp;

    b) Nộp tạm ứng chi phí giám định tư pháp khi yêu cầu giám định; thanh toán kịp thời, đầy đủ chi phí giám định cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định khi nhận kết luận giám định.

    4. Người yêu cầu giám định chỉ được thực hiện quyền tự yêu cầu giám định trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm.

    Căn cứ quy định trên thì việc cơ quan chức năng trả lời bạn như vậy là có căn cứ, phù hợp với quy định của Luật giám định tư pháp.

    Đó là nội dung tư vấn của luât sư cho trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể hỏi tiếp hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư qua Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2 của Công ty luật Bách Dương.

    Chúc bạn mạnh khỏe, thành công!

  • Xem thêm     

    24/07/2015, 05:03:59 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Luật sư Dương Văn Mai tiếp tục tư vấn cho em như sau:

    Lời khai của ông Q không phải là chứng cứ duy nhất để xem xét giải quyết vụ việc,nếu lời khai của ông Q không đúng với sự thực khách quan thì cũng không có giá trị.

    Công an không chỉ căn cứ vào lời khai của những người liên quan mà còn căn cứ vào chứng cứ, vật chứng để xác xử lý vụ việc.

     

  • Xem thêm     

    20/07/2015, 10:56:59 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Trước hết luật sư xin chia sẻ với bạn và gia đình về sự việc đáng tiếc này!

    Đối với sự việc bạn nêu là rất nghiêm trọng với vết tích để lại trên thân thể người thân của bạn thì trường hợp này có thể đã vượt quá phạm vi của cố ý gây thương tích thậm chí có dấu hiệu của tội giết người.

    Đối với trường hợp xử lý ông Q về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự

    Điều 104. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác

    1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm:

    a) Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người;

    b) Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân;

    c) Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều người;

    d) Đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;

    đ) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Có tổ chức;

    g) Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục;

    h) Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê;

    i) Có tính chất côn đồ hoặc tái phạm nguy hiểm;

    k) Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì  lý do công vụ của nạn nhân.

    2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật  từ  61% trở lên hoặc dẫn đến chết người hoặc từ 31% đến 60%, nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

     4. Phạm tội dẫn đến chết nhiều người hoặc trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân.

    Với việc người thân của bạn bị thiệt mạng thì khi xử lý ông Q về tội Cố ý gây thương tích hình phạt sẽ được áp dụng theo khoản 3, Điều 104.

    Nếu có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự với ông Q về tội giết người theo quy định tại Điều 93 Bộ luật hình sự thì mức án cao nhất ông Q có thể phải chấp hành là tử hình:

    Điều 93. Tội giết người

    1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a)  Giết nhiều người;

    b) Giết phụ nữ mà biết là có thai;

    c) Giết trẻ em;

    d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân;

    đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình;

    e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng  hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng;

    g)  Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác;

    h)  Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân;

    i)  Thực hiện tội phạm một cách man rợ;

    k)  Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp;

    l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người;

    m) Thuê giết người hoặc giết  người thuê;

    n)  Có tính chất côn đồ;

    o)  Có tổ chức;

    p)  Tái phạm nguy hiểm;

    q) Vì động cơ đê hèn.

    2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.

    Ngoài trách nhiệm hình sự ông Q sẽ phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình bạn về việc xâm hại tới tính mạng của người thân của bạn. Mức bồi thường có thể do các bên thỏa thuận hoặc theo quy định tại Điều 610 Bộ luật Dân sự năm 2005.

    Điều 610. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm

    1. Thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm bao gồm:

    a) Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước khi chết;

    b) Chi phí hợp lý cho việc mai táng;

    c) Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.

    2. Người xâm phạm tính mạng của người khác phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại, nếu không có những người này thì người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng, người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa không quá sáu mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.

    Khi sự việc được giải quyết theo thủ tục tố tụng hình sự thì đại diện gia đình bạn sẽ tham gia vụ án với tư cách đại diện người bị hại để đưa ra các yêu cầu của mình, trong đó có yêu cầu về tội danh, mức bồi thường thiệt hại dân sự...

    Trên đây là một số nội dung tư vấn của luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho trường hợp của gia đình bạn. Nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư qua Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2.

    Chúc bạn và gia đình sớm giải quyết được sự việc!

  • Xem thêm     

    15/07/2015, 09:49:37 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Liên quan nội dung bạn hỏi luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Về trách nhiệm, nghĩa vụ của chủ phương tiện trong trường hợp này được xác định có nghĩa vụ liên đới để bồi thường cho người bị hại theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2005.

    Nếu sự việc có căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì chủ phương tiện cũng có thể bị xem xét trách nhiệm hình sự về

    Điều 205. Tội điều động hoặc giao cho người không đủ điều kiện điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều động hoặc giao cho người không có giấy phép hoặc bằng lái xe hoặc không đủ các điều kiện khác theo quy định của pháp luật điều khiển các phương tiện giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ một năm đến ba năm.

    2. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ năm năm đến mười hai năm.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Hiện tại em bạn nên vận động người đã gây ra tai nạn đến trình báo sự việc tại cơ quan công an và tích cực trong việc thăm hỏi để khắc phục hậu quả khi đó mới hạn chế được hậu quả từ đó trách nhiệm trước pháp luật cũng sẽ được giảm đi.

    Nếu còn vướng mắc hoặc cần tư vấn thêm bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Công ty luật Bách Dương qua Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2.

    Chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    03/07/2015, 12:26:53 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với nội dung bạn hỏi, căn cứ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Trong vụ án hình sự ngoài bị cáo, người bị hại còn có thể xuất hiện thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tới vụ án hình sự phải có trách nhiệm cung cấp lời khai, cung cấp vật chứng, tài liệu phục vụ cho quá trình điều tra xét xử vụ án hình sự việc lấy lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quy định tại Điều 70 Bộ luật Tố tụng hình sự như sau:

    Điều 70. Lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án

    1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

    2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.

    Trường hợp người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trực tiếp tham gia quá trình thực hiện tội phạm thì tùy tính chất, vai trò cụ thể có thể bị xem xét là đồng phạm trong vụ án đó.

    Đó là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp của bạn, nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn để được các luật sư cùng tư vấn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Công ty luật Bách Dương qua Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2.

    Chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    03/07/2015, 12:14:17 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với thông tin bạn nêu luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Đối với trường hợp này nếu sự việc được cơ quan chức năng khởi tố vụ án hình sự và khởi tố bị can đối với A thì hình phạt đối với A trong trường hợp này được quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 như sau:

    Điều 202. Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

    1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

     2. Phạm tội  thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; 

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn  giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Căn cứ quy định của Điều 202 và hậu quả thực tế đã xảy ra thì trường hợp này khung hình phạt sẽ được áp dụng là khung hình phạt được quy định tại Khoản 1, Điều 202 "bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm".

    Ngoài trách nhiệm hình sự thì A còn có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho gia đình bà C, mức bồi thường do các bên thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án khi xét xử.

    Đó là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp bạn hỏi, nếu còn vướng mắc bạn có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn để được các luật sư cùng tư vấn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Công ty luật Bách Dương qua Tổng đài tư vấn luật 19006281 nhánh số 2.

    Chúc bạn mạnh khỏe và thành công!

  • Xem thêm     

    10/06/2015, 10:41:12 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với nội dung bạn cung cấp, luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Theo quy định tại Điều 10, Luật Đặc xá năm 2007 thì điều kiện để xét đặc xá với người phạm tội đang chấp hành án như sau:

    Điều 10. Điều kiện được đề nghị đặc xá

    1. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù được đề nghị đặc xá phải có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Chấp hành tốt quy chế, nội quy của trại giam, trại tạm giam; tích cực học tập, lao động; trong quá trình chấp hành hình phạt tù được xếp loại cải tạo từ loại khá trở lên; khi được đặc xá không làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

    b) Đã chấp hành hình phạt tù được một thời gian do Chủ tịch nước quyết định nhưng ít nhất là một phần ba thời gian đối với hình phạt tù có thời hạn, nếu trước đó đã được giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù thì thời hạn được giảm không được tính vào thời gian đã chấp hành hình phạt tù; ít nhất là mười bốn năm đối với hình phạt tù chung thân;

    c) Đối với người bị kết án phạt tù về các tội phạm về tham nhũng hoặc một số tội phạm khác được Chủ tịch nước quyết định trong mỗi lần đặc xá thì phải chấp hành xong hình phạt bổ sung là phạt tiền, bồi thường thiệt hại, án phí hoặc nghĩa vụ dân sự khác.

    2. Người bị kết án phạt tù có thời hạn, tù chung thân đã được giảm xuống tù có thời hạn đang chấp hành hình phạt tù có đủ điều kiện quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều này được Chủ tịch nước quyết định thời gian đã chấp hành hình phạt tù ngắn hơn so với thời gian quy định tại điểm b khoản 1 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

    a) Đã lập công lớn trong thời gian chấp hành hình phạt tù, có xác nhận của trại giam, trại tạm giam;

    b) Là thương binh; bệnh binh; người có thành tích trong chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội được tặng thưởng một trong các danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng lao động, Huân chương, Huy chương kháng chiến, các danh hiệu Dũng sỹ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước; người có thân nhân là liệt sỹ; con của Bà mẹ Việt Nam anh hùng; con của Gia đình có công với nước;

    c) Là người đang mắc bệnh hiểm nghèo hoặc ốm đau thường xuyên, có kết luận giám định y khoa hoặc xác nhận bằng văn bản của cơ quan y tế có thẩm quyền;

    d) Khi phạm tội là người chưa thành niên;

    đ) Là người từ 70 tuổi trở lên;

    e) Có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bản thân là lao động duy nhất trong gia đình, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi gia đình người đó cư trú;

    g) Trường hợp khác do Chủ tịch nước quyết định.

    3. Chính phủ có trách nhiệm hướng dẫn chi tiết việc áp dụng điều kiện của người được đề nghị đặc xá theo Quyết định về đặc xá của Chủ tịch nước.

    Như vậy xét về điều kiện thời hạn chấp hành bản án thì anh trai bạn có đủ điều kiện, tuy nhiên việc có được đặc xá hay không còn phụ thuộc vào quy trình xét hồ sơ của các cơ quan chức năng.

    Chúc bạn mạnh khỏe và hy vọng anh trai bạn được đặc xá!

  • Xem thêm     

    06/06/2015, 04:04:28 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho bạn như sau:

    Theo quy định tại Khoản 1, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 199 được sửa đổi bổ sung năm 2009: " Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm."

    Như vậy với trường hợp này của bạn nếu có đủ căn cứ xác định chiếc latop đó của bạn có giá trị 9 triệu đồng , người này sẽ phải chấp hành hình phạt " cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.".

    Các giấy tờ, tài liệu kèm theo của bạn không được coi là tài sản theo quy định của pháp luật, nên bạn có thể trình báo việc mất rồi xin cấp lại các tài liệu đó nhé.

    Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư, nếu còn vướng mắc em có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Công ty luật Bách Dương qua Tổng đài tư vấn luật 1900 6281 nhánh 2 nhé./.

    Chúc bạn sớm giải quyết được sự việc./.

  • Xem thêm     

    06/06/2015, 03:41:23 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với thông tin em cung cấp luật sư Dương Văn Mai, Công ty luật Bách Dương, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn cho em như sau:

    Bộ luật Hình sự năm 1999, Điều 115. Tội giao cấu với trẻ em

    1.  Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

    2.  Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều người;

    c) Có tính chất loạn luân;

    d) Làm nạn nhân có thai;

    đ) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên;

    b) Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội.

    Như vậy với việc bé gái đó có thai, thì khi bị truy cứu trách nhiệm hình sự em sẽ bị áp dụng khoản 2, Điều 115 với hình phạt tù từ ba năm đến 10 năm.

    Trên đây là nội dung tư vấn của luật sư cho trường hợp em nêu, em có thể tiếp tục gửi câu hỏi về diễn đàn hoặc nghe tư vấn trực tiếp từ luật sư tại Công ty luật Bách Dương qua Tổng đài 19006281 nhánh số 2.

    Chúc em sớm giải quyết được sự việc./.

     

  • Xem thêm     

    04/06/2015, 12:00:08 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào em!

    Với thông tin em nêu thì việc chat sex như vậy là hành vi lệch lạc trong một bộ phận những bạn trẻ hiện nay, đây là hành vi chưa đúng chuẩn mực đạo đức, lối sống.... Tuy nhiên đó không phải là hành vi vi phạm pháp luật hình sự.

    Hành vi này cũng không thuộc trường hợp phạm tội Dâm ô đối với trẻ em theo quy định tại Điều 116 Bộ luật Hình sự

    1. Người nào đã thành niên mà có hành vi dâm ô đối với trẻ em, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến bảy năm:

    a) Phạm tội nhiều lần;

    b) Đối với nhiều trẻ em;

    c) Đối với trẻ em mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh;

    d) Gây hậu quả nghiêm trọng;

    đ) Tái phạm nguy hiểm.

    3. Phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười hai năm.

    4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Tuy vậy qua sự việc này em cũng nên cẩn trọng trong việc sử dụng các trang mạng xã hội, các phương tiện thông tin nhé.

  • Xem thêm     

    25/05/2015, 11:12:45 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Nếu không phải do lỗi của cha em thì cha em không có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại em nhé. Đối với trường hợp này nếu nồng độ cồn khi tham gia giao thông của cha em vượt quá quy định thì có thể bị xử phạt vi phạm hành chính./.

  • Xem thêm     

    25/05/2015, 11:01:27 SA | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Cảm ơn em có thể lúc trả lời em luật sư có sự nhầm lẫn giữa cá nhân với cửa hàng.

  • Xem thêm     

    22/05/2015, 05:38:48 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Có thể đây là xe do phạm tội mà có. Vì xe máy, ô tô là các tài sản phải đăng ký nên đương nhiên khi đi mua em nên kiểm tra số máy, số khung trên hô sơ đăng ký xe để tránh rắc rối nhé.

    Nếu em muốn tố giác thì có thể gửi đơn tố cáo đến công an xã, phường nơi cửa hàng đó đang hoạt động để cơ quan chức năng xem xét, điều tra, xác minh.

  • Xem thêm     

    22/05/2015, 04:26:50 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    LuatSuDuongVanMai
    LuatSuDuongVanMai
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:14/10/2010
    Tổng số bài viết (4957)
    Số điểm: 28005
    Cảm ơn: 20
    Được cảm ơn 1841 lần


    Chào bạn!

    Với các thông tin bạn nêu thì trường hợp này việc đầu tiên mà cơ quan chức năng có thể xem xét đó là việc mê tín theo đó nếu có đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự thì những người này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hành nghề mê tín, dị đoan theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Hình sự.

    Điều 247. Tội hành nghề mê tín, dị đoan

    1. Người nào dùng bói toán, đồng bóng hoặc các hình thức mê tín, dị đoan khác gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích  mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu  tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội làm chết người hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng.

    Trường hợp có căn cứ để chứng minh đây là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thì sẽ bị truy cứu theo điều 139 Bộ luật Hình sự.

    Điều 139. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

    1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ  sáu tháng đến ba năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:

    a) Có tổ chức;

    b) Có tính chất chuyên nghiệp;

    c) Tái phạm nguy hiểm;

    d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;

    đ) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;

    e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    g) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một  trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,  thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.

    Theo tôi trường hợp này nên tố cáo về tội hành nghề mê tín dị đoan, việc tố cáo cần được thực hiện tại công an quận huyện nơi hàng vi vi phạm này được thực hiện.

    Đơn tố cáo cần phải nêu rõ họ tên người bị tố cáo, địa chỉ của họ và những người liên quan nếu có.

    Hiện tại do chưa có cơ quan chức năng nào thụ lý vụ việc nên những người hành nghề đó vẫn được tự do đi lại giữa các tỉnh thành và địa phương. Họ chỉ bị bắt hoặc cấm đi khỏi nơi cư trú khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.

    Chúc bạn khỏe và có lựa chọn tốt nhất cho mình!

48 Trang «<567891011>»