Tư Vấn Của Luật Sư: Luật sư Nguyễn Đức Long - luatsuduclong

7 Trang <1234567>
  • Xem thêm     

    23/08/2013, 02:08:50 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Theo quy định tại Điều 122 Bộ Luật dân sự năm 2005 quy định về Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự như sau:

    "1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:

    a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

    b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;

    c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.

    2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định".

    Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bố mẹ bạn và bên nhận chuyển nhượng không có hiệu lực pháp luật vì các bên tham gia giao dịch không thực hiện việc ký kết bằng Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chứng nhận của công chứng. Như vậy, giao dịch dân sự giữa bố mẹ bạn và cô ấy được thực hiện bằng hợp đồng miệng nên bị vô hiệu do lỗi của các bên tham gia giao kết, thuộc trường hợp lỗi hỗn hợp.

    2. Nếu bên mua khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp thì Tòa án sẽ xem xét tính pháp lý của giao dịch và giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu, buộc các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.

    3. Do giao dịch dân sự vô hiệu nên không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Vì vậy, bố mẹ bạn phải trả lại số tiền 90 triệu đồng, bên nhận chuyển nhượng phải trả lại đất (nếu đã nhận) và không bên nào phải bồi thường.

    Thân!

  • Xem thêm     

    21/08/2013, 05:27:47 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp ông A và bà B chuyển quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất sang cho con trai trưởng là C một cách hợp pháp thì tài sản đã thuộc quyền sở hữu, quyền sử dụng của ông C. Đến nay, ông C mất thì phần tài sản của ông C trở thành di sản thừa thuộc về những người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của ông C, ông D và ông E không có cơ sở để khởi kiện.

    Nếu ông C mất có để lại di chúc cho ông D và ông E được hưởng di sản thừa kế của ông C thì ông D và ông E có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia di sản.

     Nếu ông C mất không để lại di chúc thì di sản thuộc về những người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất (theo quy định tại Điều 676 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Người thừa kế theo pháp luật) của ông C, trong đó có vợ và con của ông C, ông D và ông E không được thừa kế di sản của ông C.

    Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn như trên, nếu cần tư vấn thêm bạn có thể hỏi tiếp.

    Thân chào!

  • Xem thêm     

    21/08/2013, 04:40:30 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp cha bạn mất năm 1975, năm 1976 ông nội bạn mất, năm 2000 bà nội bạn mất. Ông bà nội bạn mất không để lại di chúc nên di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của ông bà nội bạn. Cha bạn mất trước ông bà nội bạn nên bạn là người được hưởng phần di sản mà cha bạn được hưởng nếu còn sống thuộc trường hợp thừa kế thế vị.

    Tuy nhiên, nếu có tranh chấp thì thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác đã hết nên bạn hoặc các đồng thừa kế khác không còn quyền khởi kiện nữa. Trường hợp các đồng thừa kế không có tranh chấp thì di sản của ông bà nội bạn trở thành tài sản chung của các thừa kế, trong đó có bạn.

    Theo tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I của Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình hướng dẫn về việc Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

     a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

     a. 1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

     a. 2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

     a. 3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

     b) Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo ủy quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản".

    Như vậy, với viện dẫn nêu trên, các đồng thừa kế không có tranh chấp về thừa kế và đều thừa nhận di sản do ông bà nội bạn để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung. Bạn cũng có quyền được chia hoặc yêu cầu chia tài sản chung.

    Thân!

  • Xem thêm     

    21/08/2013, 04:17:23 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp không nói rõ việc bố mẹ bạn bỏ nhau có bản án hay quyết định của Tòa án về ly hôn và chia tài sản liên quan đế thửa đất hay không?

    Bố mẹ bạn được mua đất giãn dân thì phần tài sản này thuộc quyền sử dụng của bố mẹ bạn.

    Nếu bố mẹ bạn bỏ nhau không có bản án hay quyết định của Tòa án về ly hôn và chia tài sản, không có văn bản thỏa thuận chia tài sản chung liên quan đến thửa đất này thì thửa đất vẫn có quyền sử dụng của mẹ bạn, tương ứng 50% thửa đất.

    Trường hợp bố bạn muốn chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất này mà không được sự đồng ý của mẹ bạn là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mẹ bạn, mẹ bạn có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật.

    Với thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn cho bạn như trên, nếu cần tư vấn thêm bạn có thể hỏi tiếp.

    Thân!

  • Xem thêm     

    14/08/2013, 06:00:48 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào ông!

    Năm 1989 bố ông mất không để lại di chúc, vì vậy phần di sản của bố ông thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của bố ông. 02 người anh của ông đã được UBND phường cấp đất sử dụng nhưng xét về quan hệ thừa kế thì họ vẫn được thừa kế di sản do bố ông để lại.

    Tuy nhiên, năm 1989 bố ông mất nên thời hiệu khởi kiện để một trong những người thừa kế yêu cầu chia di sản đã hết.

    Theo Điều 645 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thời hiệu khởi kiện về thừa kế như sau: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế".

    Như vậy, các anh của ông không còn quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia di sản là quyền sử dụng đất làm 5 phần nữa.

    Chúc ông thành công!

  • Xem thêm     

    14/08/2013, 12:32:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn như sau:

    02 thửa đất là tài sản chung của bố mẹ bạn, bố bạn mất không để lại di chúc thì phần quyền sử dụng đất của bố bạn có trong 02 thửa đất thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của bố bạn, thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 676 Bộ Luật Dân sự năm 2005:

    "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.

    Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau".

    Trong trường hợp quan hệ hôn nhân giữa người vợ trước với bố bạn đã chấm dứt bằng một Bản án hoặc Quyết định ly hôn của Tòa án thì người vợ trước không được thừa kế phần di sản của bố bạn để lại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    09/08/2013, 12:13:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Thừa kế thế vị là trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống.

    Theo Điều 677 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định về Thừa kế thế vị như sau:

    "Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống".

    Năm 2004 ông bà Phương mất, năm 2005 người con trai cả của ông bà Phương mất thì không thuộc trường hợp thừa kế thế vị mà thuộc trường hợp kế thừa quyền thừa kế, vợ và con của người con trai cả là người thừa kế quyền và nghĩa vụ của người con trai cả của ông bà Phương.

    Như vậy, trong trường hợp các đồng thừa kế của ông bà Phương họp thống nhất phân chia tài sản thửa kế, các đồng thừa kế thỏa thuận chuyển quyền thừa kế cho chị Dâu cả là phù hợp và được pháp luật bảo vệ.

    Thân!

  • Xem thêm     

    08/08/2013, 03:08:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, có phải bạn muốn hướng dẫn việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án?

    Theo Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 quy định về Thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai như sau:

    "Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải quyết như sau:

    1. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết;

    2. Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này được giải quyết như sau:

    a) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết; quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là quyết định giải quyết cuối cùng;

    b) Trường hợp Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết lần đầu mà một bên hoặc các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường; quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là quyết định giải quyết cuối cùng".

    Như vậy, trong trường hợp tranh chấp mà bà A hoặc bà B có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết, trường hợp tranh chấp mà bà A hoặc bà B không có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 thì do UBND cấp huyện giải quyết.

    Theo khoản 1, khoản 2, khoản 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 quy định về Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá  nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất như sau:

    "1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật".

    Thân!

  • Xem thêm     

    07/08/2013, 01:52:10 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trong trường hợp bạn thấy hiện trạng sử dụng đất thực tế và trong bản đồ có sự sai lệch về hình thể, kích thước, diện tích giữa gia đình bạn và nhà hàng xóm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì bạn có thể yêu cầu nhà hàng xóm trả lại phần diện tích đất còn thiếu cho bạn. Để tránh xảy ra tranh chấp, hai bên có thể thỏa thuận để đi đến thống nhất và yêu cầu UBND cấp xã chỉnh lý lại hồ sơ địa chính .

    Thân!

  • Xem thêm     

    07/08/2013, 11:27:56 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trường hợp thửa đất có nguồn gốc được hình thành từ việc nhà nước giao cho hộ gia đình bạn thì quyền sử dụng đất thuộc hộ gia đình bạn và cha bạn là đại diện hộ gia đình có tên trên GCNQSDĐ.

    Trường hợp thửa đất có nguồn gốc được hình thành từ việc cha mẹ bạn nhận chuyển nhượng, được thừa kế, được tặng cho thì quyền sử dụng đất thuộc về cha mẹ bạn. Việc ghi tên người sử dụng đất là "hộ ông ..." trên GCNQSDĐ là không phù hợp. Để được cấp GCNQSDĐ riêng cho cha mẹ bạn thì cha mẹ bạn phải tiến hành thủ tục đính chính GCNQSDĐ.

    Sau khi được đính chính GCNQSDĐ thì cha mẹ bạn có toàn quyền cho tặng hoặc để lại di sản cho 01 trong số 06 người con là người thừa kế quyền sử dụng đất của cha mẹ bạn mà không cần phải có sự đồng ý hoặc ký tên của 05 người con còn lại.

    Thân!

  • Xem thêm     

    25/07/2013, 10:02:10 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn như sau:

    Trường hợp bố mẹ bạn mất không để lại di chúc định đoạt thửa đất cho người thừa kế hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp thì di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ Luật Dân sự năm 2005 về Người thừa kế theo pháp luật (Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết).

    Chị bạn đã không thực hiện thủ tục phân chia di sản thừa kế, không được sự đồng ý của các đồng thừa kế mà tự đăng ký chuyển quyền sử dụng đất sang tên mình là trái pháp luật.

    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia di sản thừa kế, đồng thời yêu cầu Tòa án kiến nghị UBND cấp huyện nơi có đất hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của chị ấy.

    Thân!

  • Xem thêm     

    25/07/2013, 09:37:59 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    chào bạn!

    Theo Điều 275 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như sau:

    "1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

    Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

    2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định.

    3. Trong trường hợp bất động sản được chia thành nhiều phần cho các chủ sở hữu, chủ sử dụng khác nhau thì khi chia phải dành lối đi cần thiết cho người phía trong theo quy định tại khoản 2 Điều này mà không có đền bù".

    Như vậy, trường hợp xét thấy hộ phía sau mở đường ra ngõ đi chung được coi là thuận tiện và hợp lý nhất thì hộ phía sau có quyền yêu cầu những chủ sở hữu ngõ đi chung dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng, những người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Gia đình bạn không có quyền yêu cầu vì gia đình bạn đã có lối đi khác.

    Hộ phía sau được dành lối đi có nghĩa vụ phải đền bù cho chủ sở hữu ngõ đi chung (nếu không có thoả thuận khác). Trong trường hợp những chủ sở hữu ngõ đi chung không dành cho hộ phía sau một lối đi ra đến đường công cộng thì hộ phía sau có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án buộc những chủ sở hữu ngõ đi chung phải dành cho mình một lối đi.

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/07/2013, 06:44:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    1. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 127 Luật Đất đai năm 2003  quy định về Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:

    "Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng".

    Vì vậy, việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải được lập thành văn bản, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng, trường hợp bạn và cô bạn thỏa thuận miệng về quyền sử dụng đất liên quan đến lối đi chung thì không phù hợp với quy định của pháp luật nên không có hiệu lực.

    2. Theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 275 Bộ Luật Dân sự năm 2005 quy định Quyền về lối đi qua bất động sản liền kề như sau:

    "1. Chủ sở hữu bất động sản bị vây bọc bởi các bất động sản của các chủ sở hữu khác mà không có lối đi ra, có quyền yêu cầu một trong những chủ sở hữu bất động sản liền kề dành cho mình một lối đi ra đến đường công cộng; người được yêu cầu có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu đó. Người được dành lối đi phải đền bù cho chủ sở hữu bất động sản liền kề, nếu không có thoả thuận khác.

    Lối đi được mở trên bất động sản liền kề nào mà được coi là thuận tiện và hợp lý nhất, có tính đến đặc điểm cụ thể của địa điểm, lợi ích của bất động sản bị vây bọc và thiệt hại gây ra là ít nhất cho bất động sản có mở lối đi.

    2. Vị trí, giới hạn chiều dài, chiều rộng, chiều cao của lối đi do các bên thoả thuận, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và ít gây phiền hà cho các bên; nếu có tranh chấp về lối đi thì có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định".

    Như vậy, trong trường hợp thửa đất 2 không có lối đi ra đến đường công cộng thì chủ thửa đất 2 có quyền yêu cầu bạn dành cho họ một lối đi ra đến đường công cộng, bạn có nghĩa vụ đáp ứng yêu cầu của họ, bạn có thể lấy lại lối đi bên trái và mở lối đi bên phải miễn là vẫn tạo điều kiện thuận lợi cho thửa đất 2 có lối đi.

    3. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp buộc chủ thửa đất 2 phải đền bù cho bạn (nếu không thoả thuận được).

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/07/2013, 05:45:16 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo quy định tại Điều 127 Luật Đất đai năm 2003  quy định về Trình tự, thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất như sau:

    "1. Việc nộp hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất được quy định như sau:

    a) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất nộp tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất; trường hợp hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất tại nông thôn thì nộp tại Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất;

    b) Hồ sơ chuyển nhượng quyền sử dụng đất gồm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải có chứng nhận của công chứng nhà nước; trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân thì được lựa chọn hình thức chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.

    2. Trong thời hạn không quá mười lăm ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm thẩm tra hồ sơ, gửi hồ sơ cho cơ quan quản lý đất đai thuộc Uỷ ban nhân dân cấp có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    Trường hợp các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ tài chính mà nghĩa vụ tài chính đó được xác định theo số liệu địa chính thì văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thông báo cho các bên chuyển nhượng thực hiện nghĩa vụ tài chính.

    Trong thời hạn không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày thực hiện xong nghĩa vụ tài chính, các bên tham gia chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại nơi đã nộp hồ sơ".

    Như vậy, thời hạn giải quyết thủ tục hành chính về đăng ký chuyển quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở tính từ thời điểm bạn nộp hồ sơ hợp lệ đến khi lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là 20 ngày làm việc.

    Thân!

  • Xem thêm     

    24/07/2013, 09:57:33 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Với nội dung thông tin bạn cung cấp, Luật sư Nguyễn Đức Long - Văn phòng luật sư Đức Tín thuộc Đoàn luật sư thành phố Hà Nội tư vấn như sau:

    Về tư cách khởi kiện vụ án tranh chấp nêu trên thì các thành viên trong xóm bạn không có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình vì xóm bạn sẽ không có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 (các giấy từ về quyền sử dụng đất, giao dịch về đất, các giấy tờ giải quyết tranh chấp đất đai) nên Tòa án sẽ không thụ lý vụ án.

    Muốn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích công cộng thì cá nhân ông Tuấn không thể khởi kiện được mà phải do cơ quan, tổ chức đứng ra khởi kiện.

    Theo quy định tại Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011 quy định về Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước như sau:

    "1. Cơ quan về dân số, gia đình và trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình trong trường hợp do Luật hôn nhân và gia đình quy định.

    2. Công đoàn cấp trên của công đoàn cơ sở có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động do pháp luật quy định.

    3. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách".

    Như vậy, theo viện dẫn tại khoản 3 Điều 162 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2011 quy định về Quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước thì chỉ có UBND xã mới có tư cách chủ thể đứng ra khởi kiện vụ án dân sự tranh chấp nêu trên để bảo vệ lợi ích công cộng. Tuy nhiên, để giải quyết được vấn đề này cũng khó có thể thực hiện được vì UBND xã là cơ quan thẩm định và kiến nghị UBND huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Hiền.

    Vấn đề khởi kiện vụ án tranh chấp nêu trên có thể thắng kiện được hay không phụ thuộc vào yếu tố trên và chứng cứ mà nguyên đơn cung cấp cho Tòa án để chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình có căn cứ.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    23/07/2013, 05:31:25 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Năm 1988 cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã có hiệu lực pháp luật, phần quyền sử dụng đất theo thỏa thuận đã thuộc về cha bạn, đến nay cha bạn mất nên di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn trong đó có mẹ và anh chị em bạn.

    Về nguyên tắc, đất chưa được Nhà nước cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì chưa được phép chuyển nhượng. Vì vậy, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên bị vô hiệu cho dù việc chú bạn chuyển nhượng đất có cả dấu vân tay của mẹ bạn và chữ ký của bạn.

    Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bạn có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết.

    Thân!

  • Xem thêm     

    18/07/2013, 02:12:15 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Trước hết tôi chia buồn với những mất mát và bất công của gia đình bạn.

    Nhà đất có nguồn gốc do các cụ để lại cho ông bà nội bạn, ông bà nội bạn là chủ sử dụng ngôi nhà và thửa đất trên. Năm 1994, ông nội bạn mất không để lại di chúc chia tài sản của mình cho người thừa kế nên tài sản của ông nội bạn có 50% trong khối tài sản chung của ông bà nội bạn thuộc về những người thừa kế theo pháp luật của ông nội bạn thuộc hàng thừa kế thứ nhất (gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của ông nội bạn). Bố bạn là một trong những người thừa kế của ông nội bạn, tháng 9/2012 bố bạn mất nên mẹ và 4 chị em bạn là những người thừa kế của bố bạn có quyền tiếp tục quản lý sử dụng nhà đất từ đó.

    Theo quy định tại Điều 645 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định về Thời hiệu khởi kiện về thừa kế: "Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế". Như vậy, thời hiệu khởi kiện để mẹ hoặc 4 chị em bạn yêu cầu chia thừa kết di sản của ông nội bạn đã hết nên mẹ con bạn không còn quyền khởi kiện.

    Tuy nhiên, bạn không nói rõ về việc thửa đất trên của ông bà nội bạn đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở chưa? nếu đã được cấp thì cấp vào thời điểm nào, cấp cho ai? Bạn hãy cũng cấp thêm thông tin, Luật sư sẽ tư vấn thêm cho bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    17/07/2013, 11:51:57 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Bạn chưa nói rõ việc cha và các cô chú bạn lập văn bản thỏa thuận về phần di sản cha bạn được hưởng hay đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn. Theo thông tin bạn cung cấp, Luật sư tư vấn theo 02 trường hợp như sau:

    1. Trường hợp thỏa thuận về phần di sản cha bạn được hưởng:

    Năm 1988 cha bạn tổ chức họp họ tộc và lập biên bản phân chia tài sản của ông bà để lại, văn bản được những người thừa kế và những người trong họ tộc ký tên làm chứng. Về bản chất, văn bản mà cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của ông bà bạn, văn bản này đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

    Theo quy định tại tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình như sau:

    "2.4. Không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế

     a) Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Tòa án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

     a. 1) Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thỏa thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

     a. 2) Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thỏa thuận của họ.

     a. 3) Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung".

    Như vậy, theo viện dẫn tại tiết a.2 điểm a tiểu mục 2.4 mục 2 Phần I Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 02/2004/QĐ-HĐTP ngày 10-8-2004 hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình thì cha và các cô chú bạn đã thỏa thuận về phần cha bạn được hưởng, đến nay cha bạn mất, những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn (theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự) được kế thừa quyền và nghĩa vụ dân sự, có thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án chia tài sản chung theo văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế của ông bà bạn.

    2. Trường hợp đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn:

    Năm 1988 cha và các cô chú bạn đã lập là văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế, đã chia di sản (phần quyền sử dụng đất) cho cha bạn, văn bản thỏa thuận phân chia di sản thừa kế đã có hiệu lực pháp luật, phần quyền sử dụng đất theo thỏa thuận đã thuộc về cha bạn, đến nay cha bạn mất nên di sản thuộc về những người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cha bạn (theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự).

    Chị em bạn muốn lấy lại được mảnh đất trên hay không còn tùy thuộc vào việc cung cấp chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án.

    Rất tiếc, Luật sư chưa được nghiên cứu hồ sơ để tư vấn cụ thể hơn cho bạn.

    Thân!

  • Xem thêm     

    16/07/2013, 03:41:11 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Sau khi chuyển nhượng, ngân hàng nhận chuyển nhượng kế thừa quyền, nghĩa vụ của ngân hàng chuyển nhượng và trở thành một bên trong quan hệ tín dụng với gia đình bạn. Đến nay, ngân hàng không tìm thấy sổ đỏ, gia đình bạn muốn xin cấp sổ đỏ mới phải thanh toán các khoản nợ với ngân hàng để được xác nhận không còn nợ ngân hàng rồi thực hiện thủ tục đăng ký xóa thế chấp và xin cấp sổ đỏ mới.

    Chúc thành công!

  • Xem thêm     

    15/07/2013, 04:41:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    luatsuduclong
    luatsuduclong
    Top 200
    Male
    Luật sư địa phương

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:25/09/2011
    Tổng số bài viết (456)
    Số điểm: 2576
    Cảm ơn: 1
    Được cảm ơn 221 lần


    Chào bạn!

    Theo khoản 1 Điều 6 Bộ Luật Tố tụng dân sự quy định về Cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự như sau: "Các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Toà án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp".

    Như vậy, để giữ lại phần đất trên, ông nội bạn phải đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn liên quan đến yêu cầu của chú 9, cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh thửa đất tranh chấp do ông nội bạn nhận chuyển nhượng, ông nội bạn chưa chuyển quyền sử dụng đất cho chú 9, đề nghị Tòa án buộc chú 9 trả lại thửa đất cho ông nội bạn.

    Thân!

7 Trang <1234567>