Tư Vấn Của Luật Sư: Thạc sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường - Cuonglawyer

344 Trang «<341342343344>
  • Xem thêm     

    29/08/2011, 12:18:28 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo kinh nghiệm của tôi thì rất nhiều khả năng hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất của bạn sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu bởi trường hợp của bạn không đáp ứng quy định tại Nghị quyết 02/2004 của HĐTP TANDTC. Hợp đồng trên vô hiệu cả về nội dung và hình thức: Chủ thể ký hợp đồng không đủ thẩm quyền, hình thức không tuân thủ pháp luật...

    Do vậy bạn nên thương lượng với gia đình bà Thắm. Nếu không thương lượng được thì bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết để yêu cầu gia đình bà Thắm bồi thường thiệt hại (giá trị phần quyền sử dụng đất tăng lê là thiệt hại của bạn).

    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    29/08/2011, 11:48:31 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Điều 1 Luật khiếu nại tố cáo quy định: "Điều 1

    1- Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

    Cán bộ, công chức có quyền khiếu nại quyết định kỷ luật của người có thẩm quyền khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình.

    2- Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về hành vi trái pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức."
    Điều 17 của Luật này cũng quy định: "

    Người khiếu nại có các quyền sau đây:

    a) Tự mình khiếu nại; trường hợp người khiếu nại là người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì người đại diện theo pháp luật của họ thực hiện việc khiếu nại; trường hợp người khiếu nại ốm đau, già yếu, có nhược điểm về thể chất hoặc vì lý do khách quan khác mà không thể tự mình khiếu nại thì được uỷ quyền cho cha, mẹ, vợ, chồng, anh, chị, em ruột, con đã thành niên hoặc người khác để khiếu nại;

    b) Nhờ luật sư giúp đỡ về pháp luật trong quá trình khiếu nại;

    c) Biết các bằng chứng để làm căn cứ giải quyết khiếu nại; đưa ra bằng chứng về việc khiếu nại và giải trình ý kiến của mình về bằng chứng đó;

    d) Nhận văn bản trả lời về việc thụ lý để giải quyết khiếu nại; biết thông tin, tài liệu của việc giải quyết khiếu nại; nhận quyết định giải quyết khiếu nại;

    đ) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật;

    e) Khiếu nại tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính;

    g) Rút khiếu nại trong quá trình giải quyết khiếu nại.".
    Như vậy, theo các quy định pháp luật trên thì bạn hoàn toàn có quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi sai trái của cán bộ công chức nhà nước và bạn cũng có quyền yêu cầu luật sư tư vấn, giúp đỡ về mặt pháp lý.
    Để thực hiện quyền khiếu nại tố cáo nêu trên thì bạn nên pho to tất cả các giấy tờ tài liệu và xuất trình các chứng cứ cho Luật sư để luật sư xem xét và tư vấn cụ thể cho bạn!
    Chúc bạn thành công!
    Luật sư: Đặng Văn Cường


  • Xem thêm     

    29/08/2011, 10:43:45 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo nội dung bạn trình bày thì tôi suy đoán là: khi bố cho con đất thì toàn bộ thửa đất đó chưa được cấp Giấy chứng nhận. Sau đó chính quyền địa phương đến đo đạc và cấp Giấy chứng nhận lần đầu cho cả hai bố con (mỗi người một Giấy chứng nhận riêng). Nay cả hai người đều đã được cấp GCN và ông bố muốn đòi lại?

    Như tôi đã trình bày với bạn ở trên! Trong sự việc này có một văn bản rất quan trọng trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người con là "Biên bản thỏa thuận phân chia quyền sử dụng đất" hoặc "Biên bản tặng cho quyền sử dụng đất". Biên bản trên phải có chữ ký của ông bố (và các thành viên khác trong hộ gia đình). Còn chữ ký trong các giấy tờ khác (đơn xin cấp GCn, biên bản..) không quan trọng.

    Nếu không có chữ ký nào thể hiện ý chí của ông bố là cho con đất thì ông bố mới đòi lại được. Để có câu trả lời chính xác cho trường hợp của bạn thì bạn cần đến văn phòng đăng ký Đất và Nhà thuộc Phòng TN&MT cấp huyện để xin sao chụp bộ hồ sơ xin cấp GCN của người con. Có bộ hồ sơ đó thì Luật sư mới có thể tư vấn chính xác cho bạn được!

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    29/08/2011, 10:29:31 SA | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Nếu hai người không ở chung, không quan tâm chăm sóc nhau, kinh tế riêng biệt như vậy là "Trầm trọng" rồi. Nếu bạn thực sự không còn tình cảm, không thể hàn gắn hạnh phúc gia đình thì bạn nộp đơn xin ly hôn tại Tòa. Tòa án sẽ xem xét để quyết định có cho bạn ly hôn hay không.

    Bạn lưu ý là: Việc xem xét, quyết định của Tòa án căn cứ vào lời khai của các bên và chứng cứ mà hai bên được sự xuất trình. Khi Tòa án giải quyết thì vẫn tổ chức hòa giải, động viên các bên đoàn tụ. Nếu các bên cương quyết ly hôn và đủ chứng cứ là "trầm trọng" thì Tòa án sẽ cho ly hôn.

    Thân ái!
  • Xem thêm     

    26/08/2011, 12:59:54 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
     Câu hỏi của bạn Luật sư Đặng Cường trả lời như sau:
    1. Nơi bạn gửi đơn yêu cầu không chuyển dịch tài sản (vì đang có tranh chấp) là Phòng đăng ký đất và nhà thuộc Phòng TN&MT cấp huyện chứ không phải là UBND xã vì việc chuyển nhượng QSD đất phải có Giấy chứng nhận và phải đăng ký tại Văn phòng đăng ký Đất và nhà cấp huyện mới có giá trị pháp lý.
    2. Bạn có thể yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án đòi nợ. Sau khi Tòa án thụ lý bạn đồng thời yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 102 của Bộ luật tố tụng dân sự.
    Chúc bạn thành công!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Nơi làm việc: Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    26/08/2011, 12:53:32 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Theo thông tin bạn đưa ra tôi xin trả lời như sau:
    1. Từ năm 2009 nhà nước ta thống nhất sử dụng một mẫu Giấy chứng nhận nên không còn chuyện cấp sổ hồng sổ đỏ như trước nữa.
    2. Nếu nguồn gốc sử dụng đất hợp pháp theo quy định tại Điều 49, Điều 50 luật đất đai thì bạn hoàn toàn có quyền yêu cầu Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyết sử dụng đất theo quy định. Cụ thể như sau: "Điều 49. Những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

    Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây:

    1. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trừ trường hợp thuê đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn;

    2. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    3. Người đang sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 và Điều 51 của Luật này mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    4. Người được chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, được thừa kế, nhận tặng cho quyền sử dụng đất; người nhận quyền sử dụng đất khi xử lý hợp đồng thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất để thu hồi nợ; tổ chức sử dụng đất là pháp nhân mới được hình thành do các bên góp vốn bằng quyền sử dụng đất;

    5. Người được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án hoặc quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành;

    6. Người trúng đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu dự án có sử dụng đất;

    7. Người sử dụng đất quy định tại các điều 90, 91 và 92 của Luật này;

    8. Người mua nhà ở gắn liền với đất ở;

    9. Người được Nhà nước thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở.

     

    Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

    1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

    a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

    b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

    c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

    d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

    đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

    e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

    2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

    5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

    6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

    7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

    8. Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi có các điều kiện sau đây:

    a) Có đơn đề nghị xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

    b) Được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp.
      3. Hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quy định tại  Điều 135 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai, cụ thể như sau:

    1. Hộ gia đình, cá nhân nộp tại UBND xã, thị trấn nơi có đất 1 bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).


    c) Văn bản ủy quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).


    2. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:


    a) UBND xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận

    quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở UBND xã, thị trấn trong thời gian 15 ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi hồ sơ đến văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng TN&MT.

    b) Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ghi ý kiến đối với trường hợp không đủ điều kiện; trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; gửi hồ sơ những trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến phòng TN&MT.


    c) Phòng TNMT có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trình UBND cùng cấp quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất.


    d) Thời gian thực hiện các công việc quy định tại các điểm a, b và c khoản này không quá 55 ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai danh sách các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày UBND xã, thị trấn nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày người sử dụng đất nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.


    3. Đối với trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại thì trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải thực hiện rà soát hiện trạng sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Nghị định này.


    Chúc bạn thành công!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Nơi làm việc: Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com



  • Xem thêm     

    26/08/2011, 12:42:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Cường trả lời như sau:
    1. Hiện nay pháp luật Việt Nam quy định: Đất đai là tài sản thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, cá nhân, tổ chức chỉ có quyền sử dụng chứ không có quyền sở hữu. Bạn nói quyền sở hữu đất đai của bạn là chưa chính xác.
    2. Việc bạn được cấp Giấy chứng nhận chưa đủ căn cứ vững trắc để khẳng định là quyền sử dụng đất vĩnh viễn là của bạn trừ khi giấy chứng nhận đó đã được cấp đúng trình tự thủ tục pháp luật. Cơ quan hành chính nhà nước và Toa án có quyền xem xét lại việc cấp giấy chứng nhận cho bạn có đúng hay không. Nếu không đúng thì có thể bị chỉnh lý hoặc hủy giấy chứng nhận.
    3. Việc ông A cho rằng bạn sử dụng trái phép 200m2 của ông ta thì ông ta có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho cơ quan giải quyết.
    4. UBND xã không phải là cơ quan giải quyết tranh chấp theo quy định của pháp luật (Điều 136 Luật đất đai). Trong vụ việc của bạn chỉ có Tòa án mới có quyền giải quyết. Nếu UBND xã hòa giải không thành thì bạn có thể yêu cầu tòa án nơi có đất thụ lý giải quyết.
    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Nơi làm việc: Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    26/08/2011, 12:33:58 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Cường trả lời bạn như sau:
     Sự việc của gia đình bạn rất phức tạp, những thông tin bạn đưa ra chưa đầy đủ để kết luận là ba bạn có quyền sử dụng đất hay không. Để trả lời câu hỏi của bạn thì Luật sư cần phải biết rõ nguồn gốc của thửa đất đó qua các thời kỳ sử dụng (thể hiện ở Sổ mục kê và bản đồ qua các thời kỳ 1960, 1975, 1986, 1992); Phải biết được là việc chú bạn cấp Giấy chứng nhận căn cứ vào những giấy tờ nào.
      Để biết được những nội dung trên, ba bạn cần đến UBND xã, phương gặp cán bộ địa chính để tìm hiểu về nguồn gốc đất thể hiện trên hồ sơ địa chính như thế nào, sau đó đến Văn phòng đăng ký Đất và Nhà của cấp huyện để xin trích sao bộ hồ sơ xin cấp GCN của chú bạn. Khi có các hồ sơ đó thì Luật sư mới có thể có câu trả lời chính xác cho bạn.
      Qua thực tiễn hành nghề tranh tụng dân sự của tôi cho thấy những trường hợp như của ba bạn thì có nhiều cơ hội để yêu cầu chia thừa kế hoặc yêu cầu chia tài sản chung của hộ gia đình. Tuy nhiên, để biết chắc kết quả là ba bạn có được chia không, chia bao nhiêu thì cần phải có các hồ sơ như tôi đã nêu ở trên.
    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Nơi làm việc: Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com


  • Xem thêm     

    26/08/2011, 08:33:03 SA | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Luật sư Đặng Văn Cường trả lời bạn như sau:
    1. Về mặt lý thuyết thì diện tích ngõ đi trên của gia đình bạn có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên thực tế thì rất phức tạp bởi: năm 1994 hai gia đình mới thỏa thuận phân chia ngõ đi, việc thỏa thuận phân chia không có văn bản, không được chính quyền địa phương xác nhận, bản đồ địa chính cuối cùng là khoảng năm 1992-1994 (khi bạn phân chia ngõ thì bản đồ đã thể hiện diện tích đó là ngõ rồi..). Bởi vậy nếu UBND không cấp giấy cho bạn đối với phân ngõ đi thì họ cũng có cái lý của họ.
    2. Theo kinh nghiệm thực tế của tôi thì thấy: Việc gia đình bạn có được cấp GCN đối với phần ngõ đi trên hay không phụ thuộc rất nhiều vào hồ sơ địa chính (sổ mục kê, bản đồ qua các thời kỳ 1960, 1975, 1986, 1992). Thông thường giấy chứng nhận được cấp căn cứ vào bản đồ sau cùng (năm 1992). Do vậy nếu bạn muốn cấp giấy chứng nhận ngõ đi chung thành đất ở thì bạn phải có biên bản thỏa thuận với hàng xóm và được UBND xã, phường đồng ý.
    3. Việc nộp thuế và tiền sử dụng đất sẽ căn cứ vào nguồn gốc sử dụng đất và loại đất được cấp.
    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 04:51:21 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Theo thông tin mà bạn đưa ra thì em của bạn có thể phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 Bộ luật hình sự. Điều luật này quy định như sau: “. Người nào dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

    A) Có tổ chức;

    B) Có tính chất chuyên nghiệp;

    C) Tái phạm nguy hiểm;

    D) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

    Đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

    E) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

    G) Gây hậu quả nghiêm trọng.

    3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm:

    A) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

    B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

    C) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười tám năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình:

    A) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người;

    B) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

    C) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.”.

                Bạn lưu ý tội cướp tài sản là tội có “cấu thành hình thức” nên chỉ cần có mục đích chiếm đoạt tài sản, có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc làm cho người khác không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản là cấu thành tội rồi chứ chưa cần phải lấy được tài sản của nạn nhân.

                Việc của em bạn có cấu thành tội cướp tài sản hay cưỡng đoạt tài sản… hay không còn phụ thuộc vào quá trình điều tra của cơ quan công an.

                Còn việc tạm giam 24 tiếng và tạm giữ 4 tháng để điều tra là đúng quy định của pháp luật. Bạn không phải là người chứng kiến sự việc nên không thể kết luận là công an làm đúng hay sai. Mọi việc phải căn cứ vào lời phai của em bạn và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 04:32:37 CH | Trong chuyên mục Hình sự

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

    Xin chia sẻ với sự việc của em trai bạn! Tôi trả lời câu hỏi của bạn như sau:

    1. Trách nhiệm hình sự về tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự, cụ thể như sau: “1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

    2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

    a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

    b) Trong khi say rượu hoặc say do dùng các chất kích thích mạnh khác;

    c) Gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;

    d) Không chấp hành hiệu lệnh của người đang làm nhiệm vụ điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông;

    đ) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

    3. Phạm tội gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

    4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ mà có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.

    5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm.”

    Nghị quyết 02/3003/NQ- HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao ngày 17/4/2003 hướng dẫn cụ thể như sau: “Về các tình tiết "gây thiệt hại nghiêm trọng”, "gây hậu quả rất nghiêm trọng”, "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự

    4.1. Người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại xảy ra, thì gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    A. Làm chết một người;

    B. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    C. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% đến 100%;

    D. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một người với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    Đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người, với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ ba mươi triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng;

    E. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng.

    4.2. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả rất nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm đ khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    A. Làm chết hai người;

    B. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    C. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    D. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%;

    Đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    E. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.

    4.3. Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây là "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 3 Điều 202 Bộ luật Hình sự:

    A. Làm chết ba người trở lên;

    B. Làm chết hai người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm b, c, d, đ và e tiểu mục 4.1 mục 4 này;

    C. Làm chết một người và còn gây hậu quả thuộc một trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm c, d, đ và e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    D. Gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên;

    Đ. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của những người này trên 200%;

    E. Gây tổn hại cho sức khoẻ của ba hoặc bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% trở lên và còn gây thiệt hại về tài sản được hướng dẫn tại điểm e tiểu mục 4.2 mục 4 này;

    G. Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở lên.”.

    Bạn thân mến! Hiện tại bạn mới chỉ cung cấp thông tin sơ lược về sự việc nên không thể xác định được trách nhiệm pháp lý mà em bạn phải chịu ở mức độ nào. Do vậy tôi chỉ có thể cung cấp các quy định pháp luật về sự việc để bạn vận dụng để theo dõi diễn biến sự việc. Tuy nhiên bạn cũng cần lưu ý là em bạn chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu như em bạn có lỗi. Còn nếu em bạn không có lỗi trong trường hợp trên thì em bạn sẽ không bị xử lý theo pháp luật hình sự. Còn việc bồi thường dân sự thì dù em bạn không có lỗi thì vẫn phải bồi thường theo quy định của Bộ luật dân sự và các văn bản hướng dẫn về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Việc giám định thương tật cho em bạn cũng là cần thiết, sẽ làm căn cứ để Tòa án xem xét khi lượng hình phạt nếu em bạn bị truy cứu hình sự.

    Thân ái!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 02:27:36 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Văn bản mà bạn cần không thể có được bởi việc thỏa thuận chuyển nhượng QSD đất được thực hiện tại phòng công chứng. Nếu thửa đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận lần nào thì Công chứng viên sẽ không công chứng văn bản này. Bạn chỉ cần nộp hồ sơ xin cấp tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật, cụ thể như sau:

    Điều 135 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29-10-2004 của Chính phủ về thi hành Luật Đất đai quy định:

    1. Hộ gia đình, cá nhân nộp tại UBND xã, thị trấn nơi có đất 1 bộ hồ sơ gồm có:

    a) Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    b) Một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai (nếu có).

    c) Văn bản ủy quyền xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (nếu có).

    2. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được quy định như sau:

    a) UBND xã, thị trấn có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận
    quyền sử dụng đất về tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất; trường hợp người đang sử dụng đất không có giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai thì thẩm tra, xác nhận về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất, tình trạng tranh chấp đất đai đối với thửa đất, sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt; công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở UBND xã, thị trấn trong thời gian 15 ngày; xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gửi hồ sơ đến văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc phòng TN&MT.

    b) Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và ghi ý kiến đối với trường hợp không đủ điều kiện; trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính; gửi số liệu địa chính đến cơ quan thuế để xác định nghĩa vụ tài chính đối với trường hợp người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; gửi hồ sơ những trường hợp đủ điều kiện và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến phòng TN&MT.

    c) Phòng TNMT có trách nhiệm kiểm tra hồ sơ, trình UBND cùng cấp quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ký hợp đồng thuê đất đối với trường hợp được Nhà nước cho thuê đất.

    d) Thời gian thực hiện các công việc quy định tại các điểm a, b và c khoản này không quá 55 ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai danh sách các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời gian người sử dụng đất thực hiện nghĩa vụ tài chính) kể từ ngày UBND xã, thị trấn nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày người sử dụng đất nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

    3. Đối với trường hợp cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại thì trước khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này phải thực hiện rà soát hiện trạng sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Nghị định này.
    Chúc bạn thành công!
  • Xem thêm     

    25/08/2011, 01:57:12 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    77Chào bạn!
    Trường hợp bạn hỏi pháp luật gọi là thủ tục khai nhận và phân chia di sản thừa kế, thực hiện tại phòng công chứng và giấy tờ cần các loại sau:
    1. CMND hoặc hộ chiếu (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực) của từng người
     
    2. Hộ khẩu (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực)
     
    3. Giấy đăng ký kết hôn, giấy xác nhận hôn nhân thực tế   (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực)
     
    4. Hợp đồng ủy quyền (02 bản sao có chứng thực), giấy ủy quyền (nếu xác lập giao dịch thông qua người đại diện)
     
    5. Giấy khai sinh, Giấy xác nhận con nuôi; bản án, sơ yếu lý lịch, các giấy tờ khác (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực) chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người thừa kế
    6. Giấy chứng tử (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực) của người để lại di sản, giấy báo tử, bản án tuyên bố đã chết (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực).
     7. Di chúc (nếu có)
     8. Một trong các loại Giấy tờ chứng minh quyền sử dụng/quyền sở hữu như sau: (01 Bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực)
     
     
    - Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở,
     
    - Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình trên đất, các loại giấy tờ khác về nhà ở (bản chính kèm 02 bản sao có chứng thực);
     
    - Giấy phép mua bán, chuyển dịch nhà cửa
     
    - Giấy tờ hợp thức hóa do UBND quận/huyện cấp.
     
    - Giấy phép xây dựng (nếu có).

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com


     

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 01:47:02 CH | Trong chuyên mục Hôn nhân, Thừa kế

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
     Nếu chồng phải đền bù tuổi thanh xuân cho vợ thì ai đền bù tuổi thanh xuân cho người chồng?
     Vì vậy, pháp luật VN không quy định về việc đền bù tuổi thanh xuân mà chỉ giải quyết về việc cho ly hôn hay không, chia tài sản chung vợ chồng, chia con. Tuy nhiên xin bạn lưu ý là nếu đơn phương ly hôn thì phải chứng minh được là tình trạng hôn nhân trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được theo quy định tại Điều 89 Luật hôn nhân gia đình và Hướng dẫn của TAND tối cao thì Tòa án mới giải quyết cho ly hôn. Còn tài sản chung thì sẽ phân chia (có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên).
    Thân ái!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 12:53:59 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi xin trả lời bạn như sau:
      Từ trước tới nay pháp luật về đất đai đều quy định việc tặng cho quyền sử dụng đất đều phải được lập thành văn bản mới có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, do pháp luật của nước ta chưa đầy đủ và thiếu thống nhất nên có những trường hợp giao dịch được xác lập không tuân thủ về hình thức vẫn có thể được cho là hợp pháp (như các quy định tại Nghị quyết 58/1998/NQ-QH và  của UBTV Quốc hội Thông tư 01 hướng dẫn nghị quyết về giao dịch nhà ở trước năm 1991, Nghị quyết 02/2004 của TAND tối cao...).
      Do vậy, trong trường hợp của bạn nếu ra tòa mà người con trai chứng minh được là quá trình người con sử dụng đất từ đó tới nay, ông bố không tranh chấp gì. Khi con được cấp sổ đỏ đứng tên con, bố mẹ biết mà không phản đối thì Tòa án có thể công nhận quyền sở hữu tài sản cho người con.
      Thực tiễn hành nghề luật sư của tôi thì tôi cũng có một số trường hợp khách hàng như người con trên thắng kiện! Sự việc cụ thể còn phải căn cứ vào khả năng thu thập và xuất trình chứng cứ tại Tòa án thì mới xác định được người thắng kiện.
    Thân ái!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 12:41:09 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
            Tôi xin trả lời bạn như sau:
            Điều 466 Bộ luật dân sự quy định: "Hợp đồng tặng cho động sản có hiệu lực khi bên được cho nhận tài sản". Như vậy, với quy định pháp luật này thì Công ty A không có quyền đòi lại tài netbook trên.
           Tuy nhiên, bạn phải chứng minh được có việc tặng cho. Nếu không thì rắc rối đấy!
    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    25/08/2011, 12:35:07 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!

        Tôi rất thông cảm với hoàn cảnh của bạn.

        Tôi cũng có nhiều khách hàng rơi vào hoàn cảnh như bạn, họ rất bức xúc. Thậm chí có những người xây nhà trên đất của mình, có giấy phép xây dựng mà vẫn bị hàng xóm bắt "xin phép hàng xóm" và phải chấp nhận nộp "lệ phí" cho hàng xóm hàng trăm triệu mới được xây nhà của mình (nếu không thì họ kiện tụng làm cản trở việc thi công). Thông thường những vụ việc như trên chúng tôi thường tư vấn để khách hàng của mình "chung sống hòa bình" với hàng xóm (chịu nhún nhường, tìm ra nguồn gốc mâu thuần để hòa giải, thỏa thuận với nhau) còn nếu nói lý thì rất khó.

        Pháp luật có quy định về hạn chế bất động sản liền kề (được quyền yêu cầu hàng xóm cho mình sử dụng lối đi, đặt ống dẫn nước..) nhưng không quy định trường hợp được bắc giáo sang nhà hàng xóm để trát tường nhà mình. Nên nếu họ không cho trát tường phía bên nhà họ mà tường đã xây xong 3, 4 tầng rồi thì rất khó xử lý. Vì vậy cách tốt nhất chỉ có thỏa thuận hoặc sử dụng bên thứ 3 làm trung gian giải quyết vụ việc cho bạn.

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com
  • Xem thêm     

    25/08/2011, 12:21:18 CH | Trong chuyên mục Lĩnh vực Luật khác

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Tôi xin được chia sẻ với hoàn cảnh của bạn và trả lời bạn như sau:
    1. Trường hợp của bạn được quy định từ Điều 559 đến Điều 566  Bộ luật dân sự năm 2005. Theo đó  Điều 561 quy định bên gửi tài sản (gửi xe) có quyền yêu cầu bên giữ tài sản (người trông xe) bồi thường thiệt hại, nếu bên giữ làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ. Như vậy bạn có quyền yêu cầu nơi trông xe (trường học) bồi thường thiệt hại theo quy định trên của pháp luật.
    2. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại là căn cứ vào thiệt hại thực tế (thiệt hại bao nhiêu, bồi thường cần đấy).
    3. Trước hết bạn cần thông báo sự việc cho lãnh đạo nhà trường và công an trên địa bàn. Nếu vẫn không tìm ra kẻ lất cắp xe để đòi lại thì bạn có thể khởi kiện tại Tòa án nơi trường học có trụ sở để yêu cầu nhà trường bồi thường thiệt hại.
    Chúc bạn may mắn!

    Luật sư Đặng Văn Cường

    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội

    Trụ sở: Số 33/162, Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội

    Điện thoại: 0977 999 896

    Email: Cuongluatsuchinhdai@gmail.com

  • Xem thêm     

    23/08/2011, 01:11:39 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Với thông tin mà bạn đưa ra, tôi xin trả lời như sau:
    1. Về mặt lý thuyết thì bạn hoàn toàn có thể đòi lại được khoản tiền trên. Bạn chỉ có thể bị mất tiền đặt cọc nếu như bên kia chứng minh được là bạn vi phạm điều khoản đặt cọc.
    2. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của bạn không có công chứng thì sẽ bị vô hiệu theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật dân sự và Điều 127 Luật đất đai. Theo hướng dẫn của Tòa án tối cao thì Tòa án sẽ cho hai Bên thời hạn (1 tháng) để đi hoàn tất thủ tục (công chứng hợp đồng) nếu hợp đồng vẫn không được công chứng thì Tòa án sẽ tuyên bố hợp đồng vô hiệu và giải quyết hậu quả của Hợp đồng vô hiệu theo quy định tại Điều 137 Bộ luật dân sự: Bên nào nhận của nhau thứ gì thì trả, bên nào có lỗi phải bồi thường.
    3. Tòa án xử thế nào thì chưa thể biết trước được bởi liên quan đến khả năng cung cấp chứng cứ và ý chí của hai bên khi tham gia tranh tụng. ngoài ra còn liên quan đến yếu tố lỗi làm cho hợp đồng vô hiệu và thiệt hại xảy ra. Theo kinh nghiệm tranh tụng của tôi thì  trong trường hợp của bạn: Tòa án sẽ xác định hợp đồng vô hiệu, bạn phải trả lại đất (nếu đã nhận), bên kia trả lại bạn tiền. Nếu giá đất tăng lên so với giá cả thỏa thuận thì bạn được bên bán bồi thường 50% giá trị chênh lệnh (suy đoán có thể lỗi là 50%/50%). Còn nếu giá trị đất giảm đi thì bạn phải bồi thường cho chủ đất một khoản tiền.
    Chúc bạn may mắn!
    Luật sư Đặng Văn Cường
    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội
    Trụ sở: số 33/162 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội
    Điện thoại: 0977 999 896
  • Xem thêm     

    23/08/2011, 12:56:51 CH | Trong chuyên mục Đất đai, Nhà cửa

    Cuonglawyer
    Cuonglawyer
    Top 10
    Male
    Luật sư quốc tế

    Hà Nội, Việt Nam
    Tham gia:07/06/2011
    Tổng số bài viết (7332)
    Số điểm: 46544
    Cảm ơn: 10
    Được cảm ơn 2771 lần


    Chào bạn!
    Với các câu hỏi bạn đưa ra tôi xin trả lời bạn như sau:
    1. Việc cơ quan nhà nước giao đất (có thu tiền hoặc không thu tiền) hoặc cho bạn thuê đất phụ thuộc vào nhu cầu theo sự lựa chọn của bạn. (Căn cứ pháp lý: Điều 108 Luật đất đai 2003). Cho dù bạn được giao đất hay thuê đất thì đều được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật (Điều 105 Luật đất đai).
    2. Quy định về chi trả tiền đền bù (hỗ trợ, tái định cư) khi nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng được quy định tại Điều 15 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ, cụ thể như sau:

    "Điều 15. Chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư

    1. Tổ chức, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai nếu thực hiện ứng trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng theo phương án đã được xét duyệt thì được ngân sách nhà nước hoàn trả bằng hình thức trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp.

    2. Tổ chức, cá nhân trong nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất, giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất theo quy định của pháp luật về đất đai mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư theo phương án đã phê duyệt được tính vào vốn đầu tư của dự án." Bạn cần tìm hiểu thêm Nghị định này và các văn bản hướng dẫn để hiểu rõ hơn.
    Chúc bạn thành công! Mọi thông tin liên quan xin liên hệ:
    Luật sư Đặng Văn Cường
    Văn phòng luật sư Chính Đại, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội
    Điện thoại: 0977 999 896
    Email: cuongluatsuchinhdai@gmail.com

344 Trang «<341342343344>